TS. Nguyễn Minh Tuấn
Nguồn: Bauxite Việt Nam,
Điều 2 Câu 2 Hiến pháp 1992 khẳng định: “Tất
cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân […]”, hay nói cách khác nhân dân là chủ thể của quyền lực
nhà nước, nhưng ngay sau đó, tại Điều 4 lại qui định: “Đảng
Cộng sản Việt Nam […] là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội.” Hai điều này liệu có mâu thuẫn không? Hiến pháp mà
chúng ta đang xây dựng là “Hiến pháp của Đảng”
theo nghĩa Đảng “lãnh đạo nhà nước và xã hội”, lãnh đạo “việc sửa đổi Hiến
pháp” (Điều 4, Điều 84 Khoản 1) hay đó là “Hiến pháp của dân” theo nghĩa “Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về
nhân dân” (theo
Điều 2), trong đó quyền lập hiến cũng thuộc về nhân dân?
Ở Đức, các nhà
lập hiến đã giải quyết khá triệt để vấn đề này. Điều 21 Luật cơ bản Đức qui định:
“Các đảng phái cùng góp phần hoạch định chính sách chính trị của nhân dân
[…]. Tòa án Hiến pháp liên bang có thẩm
quyền phán quyết về sự vi hiến của Đảng. Các qui định khác có liên quan
do Luật của liên bang qui định.“
“Các đảng là các tổ chức của nhân
dân, tồn tại trong một thời gian dài, hoạt động ở liên bang hoặc tiểu bang,
là các tổ chức cùng tham gia hoạch định chính sách và theo đuổi mục đích là đại
diện cho nhân dân ở Hạ viện liên bang Đức hoặc Hạ viện của tiểu bang […].”
Trong định nghĩa về Đảng nêu trên ở Đức, có một
cụm từ rất đắt giá đó là cụm từ “các tổ
chức của nhân dân”
(Vereinigungen von Bürgern). Cụm từ này hàm chứa ít nhất ba ý:
-
Thứ nhất, các Đảng
phái ra đời ở Đức là xuất phát từ nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về
nhân dân. Họ quan niệm rằng: “Nếu như
tất cả quyền lực nhà nước là thuộc về nhân dân (Điều 20 Khoản 2 Câu 1 Luật cơ
bản), thì phải tồn tại những thiết chế
chính trị của nhân dân để cùng góp phần hiện thực hóa những tiếng nói,
nguyện vọng, lợi ích của họ – những thiết chế đó chính là các Đảng phái chính
trị.” Cho
nên các Đảng ở Đức ra đời là để thực hiện chức năng liên kết giữa nhà nước
và xã hội (Điều 1 Luật các Đảng phái chính trị Đức), nhằm hiện thực hóa lợi
ích của toàn thể nhân dân.
-
Thứ hai, một Đảng
nào đó dù qui mô lớn đến đâu cũng không thể đại diện cho sự đa dạng các ý kiến,
lợi ích của toàn thể nhân dân, do vậy họ dùng thuật ngữ “các tổ chức của nhân
dân” cùng các điều kiện kèm theo để làm rõ điều này. Đảng phái không phải là những cơ quan nhà nước, không
thuộc nhà nước, mà là những tổ chức dân sự, những tổ chức của nhân dân.
-
Thứ ba, thành
viên của các Đảng phái chỉ có thể là
“công dân” (Bürger) Đức, không thể là các pháp nhân
hay các tổ chức tương tự, và cũng không bao gồm các Đảng phái, tổ chức của nước
ngoài hay của liên minh Châu Âu.
Như vậy,
các Đảng phái
ở Đức có hai chức năng chính là chức năng cùng hoạch định các chính sách từ nhân
dân và chức năng liên kết giữa nhà nước và xã hội (Điều 1 Luật các Đảng
phái ở Đức).
Điều 21 Luật cơ bản qui định „Các Đảng phái cùng góp phần hoạch định chính sách chính trị của nhân dân“. Sẽ không thể
tồn tại một chế độ độc tài trên nước Đức khi mà Luật cơ bản Đức đã minh thị
rằng: các Đảng phái ở Đức có chức năng là cùng
hoạch định chính sách chính trị của nhân dân (mitwirken). Ẩn sau qui định này còn là việc thừa nhận địa vị bình đẳng và sự cạnh tranh (Wettbewerb) một cách công
bằng giữa các Đảng phái chính trị. Tòa án hiến pháp liên bang giải thích
rằng: "Không có cạnh tranh thì không
có sự phát triển. Cần phải thiết lập
được sự đa dạng, sự cạnh tranh và tranh luận tích cực giữa các chính sách.
Chính sự đa dạng của những chính sách khác nhau mới giúp hạn chế được việc một Đảng
nào đó có được khả năng độc tài, chuyên chế và chọn lựa được chính sách đúng
đắn phù hợp nhất. Những chính sách phù hợp sẽ làm gia tăng sự giàu có của đất
nước, đồng thời tạo cơ hội bình đẳng cho tất cả mọi người."
(BVerfGE 104, 14ff.).
Bên cạnh đó, Luật cơ bản Đức
cũng đã lường tính, tạo lập một sân chơi pháp lý bình đẳng để các Đảng phái có
thể hoạt động hiệu quả bằng việc thừa nhận quyền bình đẳng về cơ hội của
các Đảng (Điều 3, 21, 38 Luật cơ bản), đồng thời không một Đảng phái nào thoát
khỏi sự kiểm soát từ bên trong lẫn bên ngoài đó là các nhóm lợi ích
khác, cơ chế tài chính, sức mạnh báo chí và đặc biệt là khả năng có thể bị Tòa án hiến pháp liên
bang tuyên vi hiến và bị giải tán (Điều 21 Luật cơ bản).
|
Chú thích: Hình vẽ thể hiện chức năng liên kết giữa nhà nước và xã hội của các Đảng phái ở Đức (Điều
1 Luật các đảng phái chính trị ở Đức) |
Ở Việt Nam, thời
gian gần đây việc góp ý cho bản dự thảo Hiến pháp diễn ra rất sôi động. Cá nhân
tôi cho rằng trước khi đi vào những vấn đề sửa đổi cụ thể, thì Ủy ban sửa đổi
Hiến pháp cần tham khảo Hiến pháp của các nước và tập trung trước hết vào giải
quyết các vấn đề còn bỏ ngỏ dưới đây:
-
Thứ
nhất, từ quan điểm thực chứng có thể thấy: con người vốn
dĩ không ai hoàn thiện, học thuyết, tư tưởng, thậm chí tổ chức của con người
cũng vậy. James Madison trong tập sách “Các bài viết chủ trương chế độ liên bang
1787-1788”, đã nhận định: “Con người không phải là những thiên thần. Nếu
con người là những thiên thần, thì chính quyền cũng chẳng cần thiết phải tồn tại
làm gì.”
Vậy thì tại sao chỉ có “chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh” mới là
“nền tảng tư tưởng” (Điều 4 Hiến pháp)? Phải chăng chỉ có chủ nghĩa Mác – Lê
nin và tư tưởng Hồ Chí Minh là luôn đúng trong mọi thời đại, còn các tư tưởng
khác thì không? Nếu chủ nghĩa Mác – Lê nin là “luôn đúng”, là “chân lý” như vậy,
thì tại sao hiện nay ở gần như đa số tuyệt đối các nước trên thế giới, trong đó
có cả các nước nơi đã hình thành nên những tư tưởng này, như ở Cộng hòa liên
bang Đức hay Liên bang Nga hiện nay, họ lại không coi đó là “nền tảng tư tưởng”
qui định trong Hiến pháp giống như chúng ta?
-
Thứ
hai, tổ chức của con người cũng không hoàn thiện, vậy Đảng
có phải là một tổ chức hoàn thiện nhất không? Nếu không, thì hiện nay hơn ba triệu Đảng viên không do
dân bầu ra, họ đang đại diện cho ai và liệu họ có thể đại diện cho tiếng nói, lợi
ích của hơn chín mươi triệu đồng bào, trong đó có rất nhiều người không phải là
Đảng viên hay không? Ở các nước dân chủ, các Đảng theo đuổi mục đích đại diện
cho lợi ích đa dạng của nhân dân ở Nghị viện. Ở Việt Nam, Quốc hội Việt Nam sẽ
đại diện cho lợi ích của tổ chức Đảng, cho đảng viên hay “của nhân dân”, khi mà
thực tế Quốc hội hiện có đến 91,6% tổng số đại biểu là Đảng viên, được tổ chức
và hoạt động theo nguyên tắc “Đảng lãnh đạo” (Điều 4) và nguyên tắc “tập trung
dân chủ” (Điều 6)? Hơn nữa, về mặt thuật ngữ, từ Đảng
chính trị (Tiếng Anh: political party/ Tiếng Đức: politische Partei, Tiếng
Pháp: parti politique) đều bắt nguồn từ gốc tiếng la tinh là từ “pars”, có nghĩa là “bộ phận”. Nếu Đảng
được hiểu theo nghĩa gốc chỉ là “bộ phận”, vậy một Đảng mà thành viên không do
dân bầu, là “một bộ phận”, có thể đại diện cho “toàn thể nhân dân Việt Nam” hay
không?
-
Thứ
ba, nếu quan niệm Đảng cũng không phải là một tổ chức hoàn
thiện, vậy khi Đảng mắc sai lầm trong hoạch định chính sách, thì tổ chức hiến định
nào có vị trí pháp lý tương đương có
thể đứng ra phản biện lại hay góp ý cho Đảng? Khi Đảng vi phạm Hiến pháp thì hệ
quả pháp lý đối với chính tổ chức Đảng là gì?
Song song với việc giải quyết những
câu hỏi kể trên, tôi nghĩ khi xây dựng Hiến pháp, các nhà lập hiến không nên
xa rời mà cần trở về đúng với cội nguồn của Hiến pháp là bản “Hiến pháp của
dân”. Các Hiến pháp
dân chủ đầu tiên trên thế giới ra đời đều là kết quả của các cuộc cách mạng dân chủ như Cách mạng
tư sản Anh, Mỹ, Pháp. Đây là những bản Hiến pháp của dân, thể
hiện được ước vọng của nhân dân, bảo vệ quyền con người, chống lại sự độc tài,
sự áp bức, bóc lột và nguy cơ lạm quyền của nhà nước. Sở dĩ gọi những Hiến pháp
đầu tiên này là Hiến pháp của dân vì những bản Hiến pháp này chỉ qui định hành
vi của nhà nước, xuất phát từ mục đích giới hạn quyền lực của Nhà nước, tạo lập
và bảo vệ xã hội dân sự một cách hợp pháp, thúc đẩy tiến bộ xã hội, ngăn chặn
hành vi lạm quyền từ phía Nhà nước.
Ở Việt Nam, muốn
xây dựng một bản Hiến pháp của dân, thì
trước tiên quyền lập hiến của nhân dân phải được tách ra khỏi quyền lập pháp của
Quốc hội.
Muốn vậy, tôi cho rằng trước tiên về mặt thủ tục cần phải thành lập một Quốc hội lập hiến do dân bầu. Hiến pháp trước
tiên phải do Quốc hội lập hiến này
thông qua. Sau khi đã được Quốc hội lập
hiến thông qua, bản Hiến pháp đó phải
được đưa ra toàn dân phúc quyết. Quốc
hội lập hiến khi hoàn thành nhiệm vụ sẽ tự giải tán, nhân dân sẽ bầu ra một
Quốc hội lập pháp (hay Nghị viện) mới.
Quốc hội lập pháp này sẽ không được quyền
sửa Hiến pháp, mà chỉ thực hiện những nhiệm vụ, quyền hạn mà Hiến pháp đã qui định.
Mọi sự sửa đổi, bổ sung Hiến pháp (nếu có) đều phải được đưa ra toàn dân phúc
quyết. Kiến nghị này không mới, cũng không xa lạ với lịch sử của bản Hiến pháp
1946, vấn
đề chỉ giản đơn là: lúc đó ta chưa có điều kiện để làm, thì nay ta cần phải làm và làm một cách nghiêm túc.
Tóm
lại, Hiến pháp đích thực bao giờ cũng là một “khế ước xã hội”, thể
hiện “ý
chí, nguyện vọng của mọi tầng lớp nhân dân.” Những vấn đề
sửa đổi Hiến pháp của chúng ta hôm nay không chỉ liên quan đến chính chúng ta,
mà còn là sản phẩm tinh thần gửi gắm đến thế hệ tương lai – con cháu của chúng
ta mai sau. Hiến pháp sửa đổi lần này vì thế cần phải mạnh dạn hội nhập với Hiến
pháp của các nước trên thế giới, cần phải trở lại những vấn đề căn bản nhất: Hiến
pháp là “Hiến pháp của dân”, Đảng
chính trị là “tổ chức của nhân dân, cùng hoạch định các chính sách
của nhân dân và thực hiện chức năng liên kết giữa nhà nước và xã hội,
vì lợi ích của toàn thể nhân dân.”