Chủ Nhật, 2 tháng 12, 2012

ÁN LỆ TRONG TƯƠNG LAI PHÁP LUẬT VIỆT NAM

Nguyễn Minh Tuấn
Luật thành văn dù có chặt chẽ, rõ ràng, ổn định, song cũng ẩn chứa những hạn chế cố hữu là cứng nhắc, giáo điều và nhiều khi đi sau thực tiễn cuộc sống. Án lệ chính là một dạng nguồn quan trọng của pháp luật[1], bổ khuyết cho những nhược điểm đó.  
Không phải đến bây giờ vấn đề án lệ mới được đặt ra ở Việt Nam, mà thực tế trong lịch sử pháp luật Việt Nam, từ thế kỷ thứ 15, Bộ luật Hồng Đức đã có nhiều điều khoản mang dấu ấn, hay là sự tổng kết t “án lệ”. Chẳng hạn như Điều 396 qui định: “Ông tổ là Phạm Giáp sinh con giai trưởng là Phạm Ất, thứ là Phạm Bính. Ông tổ Phạm Giáp có ruộng đất hương hỏa 2 mẫu đã giao cho con trưởng là Phạm Ất giữ. Phạm Ất đã đem 2 mẫu ấy nhập vào với ruộng đất của mình mà chia cho các con, chỉ còn 5 sào để cho con trai của Phạm ất giữ làm hương hỏa. Con trai của Phạm Ất lại sinh toàn con gái mà con thứ là Phạm Bình có con trai lại có cháu trai, thì số 5 sào hương hỏa hiện tại phải giao lại cho con trai, cháu trai Phạm Bình. Nhưng không được đòi lại cho đủ 2 mẫu hương hỏa của tổ trước mà sinh cạnh tranh.”
Hiện nay, cho dù án lệ không được coi là một dạng nguồn của pháp luật chính thức, nhưng thực tế, "án lệ" bằng cách này hay cách khác đã và đang hiện diện trong hệ thống pháp luật Việt Nam. Những văn bản tổng kết hướng dẫn nghiệp vụ xét xử hằng năm của Tòa án nhân dân tối cao, các Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao phục vụ cho công tác xét xử...từ lâu cũng đã là những “tiền lệ” phục vụ cho các tòa án cấp dưới trong hoạt động xét xử.
Nhà làm luật không thể dự liệu hết tất thảy mọi trường hợp xảy ra trong thực tế, cho nên nhu cầu giải thích luật là rất lớn. Câu hỏi đặt ra là có nhu cầu nhưng vì sao án lệ đến nay vẫn chưa thể trở thành một dạng nguồn chính thức của pháp luật ở Việt Nam? Có nhiều nguyên nhân, nhưng một trong những nguyên nhân quan trọng là qui định bất hợp lý trong Hiến pháp liên quan đến việc “giải thích pháp luật” tại Điều 91 Khoản 3 Hiến pháp năm 1992 vẫn chưa được bãi bỏ. Điều khoản này qui định: “Ủy ban Thường vụ quốc hội có quyền giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh.” Đây là qui định bất cập và cũng chưa bao giờ được vận dụng trên thực tế, vì Ủy ban thường vụ Quốc hội thực chất đâu có trăn trở với những vụ việc cụ thể, vì vậy cũng đâu có nhu cầu phải giải thích. Cơ quan có nhu cầu thực sự đúng nguyên lý phải là Tòa án, chứ không phải Ủy ban thường vụ Quốc hội. 
Xây dựng nhà nước pháp quyền thì tính thống nhất, đồng bộ của hệ thống pháp luật phải được ưu tiên đặt lên hàng đầu. Tuy nhiên, có một thực tế là thay vì công tác làm luật và thực thi luật phải “đi thẳng, đi đúng”, thì ta lại đang “đi lộn đầu”. Người ta nói Hiến pháp và các đạo luật phải ở vị trí tối thượng, nhưng ở Việt Nam những văn bản này trên thực tế bị đẩy xuống hàng thứ yếu[2], còn Nghị định và Thông tư mới là những văn bản được áp dụng, viện dẫn trong hoạt động áp dụng pháp luật của đời sống thường ngày. Do vậy, một đòi hỏi rất bức thiết hiện nay là làm sao phải cương tỏa quyền lập qui của Chính phủ. Nếu không có sự ủy quyền của Nghị viện một cách cụ thể ngay trong chính văn bản Luật, thì không đặt ra việc ban hành văn bản pháp qui. Hay nói cách khác: Trong từng đạo luật cần xác định rõ phạm vi nào, vấn đề nào thì Chính phủ được ban hành văn bản hướng dẫn, vấn đề nào không, có như vậy quyền lập pháp mới thực sự thuộc về Quốc hội, mà trách nhiệm cũng không bị đùn đẩy sang các cơ quan khác.
Pháp luật không tự nhiên có, không tự nhiên có thể hoàn thiện, mà phần nhiều cần phải được hỗ trợ, xây dựng và bảo vệ. Án lệ cũng vậy. Án lệ có thể thực sự trở thành một dạng nguồn pháp luật chính thức và phát huy tác dụng tích cực ở Việt Nam hay không, phần nhiều phụ thuộc vào chiến lược[3] và hệ thống giải pháp tổng thể phù hợp. Về mặt lý thuyết, cần làm rõ ở chừng mực nào, phạm vi nào thì Tòa án có quyền giải thích luật, trường hợp nào thì Thẩm phán được áp dụng tương tự pháp luật, áp dụng tương tự qui phạm pháp luật. Đi vào cụ thể, theo quan điểm của cá nhân tôi cần phải giao cho Tòa án quyền giải thích pháp luật, cương tỏa quyền lập qui, thực thi các biện pháp đảm bảo vị thế độc lập của cơ quan tư pháp, đảm bảo sự độc lập của thẩm phán, nâng cao trình độ thẩm phán, công khai hóa các bản án, đồng thời gắn công tác đào tạo sinh viên luật với hoạt động thực tiễn tại Tòa án. Làm được những việc trên, chắc chắn án lệ sẽ trở thành một nguồn quan trọng của pháp luật, góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam trong tương lai.

[1] Lưu ý: Ở Việt Nam, nhiều sinh viên thường hay nhầm lần khái niệm "nguồn pháp luật" và "nguồn gốc pháp luật". Khi nói đến "nguồn pháp luật", ta không nói đến xuất xứ của nó, mà là đề cập đến việc căn cứ nào, từ đâu mà ta vận dụng để giải quyết những vụ việc cụ thể.
[2] Khi áp dụng cho các vụ việc thực tế hàng ngày, nhiều cơ quan thực thi pháp luật cũng không có thói quen viện dẫn Hiến pháp và các Điều luật mà chủ yếu chỉ căn cứ vào những văn bản dưới luật để xử lý. Ngay cả Tòa án, trong các phán quyết, nhiều nơi cũng không viện dẫn đầy đủ các căn cứ trong Hiến pháp và các đạo luật.
[3] Ở Việt Nam, ngày 24/5/2005 Bộ chính trị đã ban hành Nghị quyết số 48- NQ/TW về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010 định hướng đến năm 2020, trong đó đã đặt ra giải pháp “nghiên cứu về khả năng khai thác, sử dụng án lệ, tập quán, kể cả tập quán và thông lệ quốc tế và quy tắc của các hiệp hội nghề nghiệp, góp phần bổ sung hoàn thiện pháp luật”. Tuy nhiên chiến lược vẫn chỉ là trên giấy tờ, việc thực thi ra sao, có thành công hay không phụ thuộc rất lớn vào sự đổi mới đồng bộ và toàn diện hệ thống pháp luật, trong đó có những yếu tố quan trọng tác giả đã nêu trong bài viết này.