Thứ Hai, 31 tháng 12, 2012

PHÂN ĐỊNH RANH GIỚI GIỮA LUẬT CÔNG VÀ LUẬT TƯ Ở ĐỨC: LỊCH SỬ, TRANH LUẬN VÀ GỢI MỞ

TS. Nguyễn Minh Tuấn
Nguồn: Tạp chí Tia sáng, 
đăng ngày 31/12/2012, truy cập đường link gốc tại đây
Việc phân chia hệ thống pháp luật thành luật công và luật tư đã trở thành một truyền thống pháp luật ở Đức cũng như những nước thuộc hệ thống pháp luật Châu Âu lục địa. Vấn đề tưởng như đã rõ ràng, đã trở thành kinh điển, nhưng hóa ra vẫn còn đó nhiều vấn đề bỏ ngỏ cần lời giải đáp như: Tư tưởng, học thuyết về phân chia hệ thống pháp luật thành luật công và luật tư có từ bao giờ, được kế thừa, phát triển ra sao ở Đức? Những lĩnh vực pháp luật cụ thể nào thuộc luật công, luật tư? và quan niệm của các nhà luật học Đức hiện nay về vấn đề này như thế nào, những vấn đề lý luận nào cần tiếp tục được giải đáp? Bài viết dưới đây sẽ góp phần làm sáng tỏ những câu hỏi trên từ góc nhìn lịch sử pháp luật và thực tiễn lý luận ở CHLB Đức.

1.     Lịch sử phân chia luật công và luật tư

a.     Học thuyết lợi ích

Tư tưởng, học thuyết phân chia luật công và luật tư đã có rất sớm từ thời La Mã cổ đại. Nhà triết học Cicero từ thế kỷ I TCN đã đưa ra quan điểm rằng pháp luật gồm có hai bộ phận cấu thành gồm: những qui định pháp luật điều chỉnh các quan hệ cá nhân  và những qui định pháp luật điều chỉnh các quan hệ công.1

Đến thế kỷ II SCN, nhà luật học La Mã Ulpian (170–228 SCN) đã đưa ra học thuyết phân chia giữa luật tư và luật công (Ius publicum) dựa trên cơ sở lợi ích (hay còn gọi là học thuyết lợi ích). Học thuyết này phân biệt: Luật công liên quan đến lợi ích của nhà nước và lợi ích công cộng, luật tư liên quan đến lợi ích của cá nhân.2

b.     Học thuyết quan hệ giữa các chủ thể

Đến thế kỷ XIX, những tư tưởng về sự phân chia giữa luật công và luật tư của Luật La Mã được kế thừa và phát triển thông qua học thuyết dựa trên quan hệ giữa các chủ thể (hay còn gọi là học thuyết quan hệ giữa các chủ thể). Học thuyết này phân chia: Nếu là quan hệ có tính thứ bậc giữa nhà nước và công dân thì đó là quan hệ pháp luật do luật công điều chỉnh, còn quan hệ mà các bên tham gia là quan hệ bình đẳng thì đó là quan hệ pháp luật của luật tư điều chỉnh.3

c.     Học thuyết hành vi của chủ thể

Học thuyết đương đại hiện nay ở Đức về phân chia luật công và luật tư là học thuyết dựa trên cơ sở phân loại hành vi của chủ thể.

Theo học thuyết này, việc phân định luật công hay luật tư cần phải dựa trên tiêu chí hành vi của chủ thể khi tham gia các quan hệ pháp luật, theo đó luật công là tổng thể những qui phạm pháp luật điều chỉnh hành vi của các chủ thể được nhà nước trao quyền nhằm thực thi chức năng, nhiệm vụ công. Luật tư là tổng thể những qui phạm pháp luật điều chỉnh hành vi của các chủ thể dựa trên các qui phạm của luật dân sự4.

Ví dụ đơn giản:

–    Một trường Đại học công là pháp nhân của luật công. Khi nhà trường ban hành qui chế và áp dụng đối với sinh viên đó là quan hệ luật công. Khi nhà trường mua văn phòng phẩm, bàn ghế với một cá nhân hoặc doanh nghiệp cụ thể, đó là quan hệ luật tư.

–    Tương tự như vậy, giáo sư ở Đức là một công chức. Khi giáo sư giảng bài, chấm bài cho sinh viên đó là quan hệ pháp luật của luật công. Trong giờ nghỉ, giáo sư đi ra ngoài mua bánh Pizza thì đó lại là quan hệ thuộc sự điều chỉnh của luật tư.

2.     Phê phán điểm hạn chế của các học thuyết

a.     Học thuyết dựa trên lợi ích

Nếu chỉ dựa vào yếu tố lợi ích để phân chia luật công và luật tư thì có nhiều vấn đề pháp lý chưa rõ ràng. Vấn đề nằm ở chỗ thế nào là lợi ích công và thế nào là lợi ích tư?

Thực tế nhiều vấn đề pháp lý thuộc luật công lại liên quan đến cả lợi ích tư và ngược lại.

Ví dụ chế định quyền cơ bản của công dân là một chế định của luật công, thuộc lĩnh vực Luật nhà nước. Tuy nhiên thực tế những quyền cơ bản được qui định trong Luật cơ bản của Đức có mục đích chính là bảo vệ lợi ích tư, lợi ích của công dân. Hoặc một bể bơi, một trường tư trong thành phố được thành lập mặc dù dưới tên gọi là công ty hoạt động theo luật tư nhưng mục đích chính của công ty lại là vì lợi ích công cộng.5

b.     Học thuyết dựa trên quan hệ giữa các chủ thể

Học thuyết này cũng không làm rõ thế nào là "quan hệ bình đẳng". Quan hệ giữa các bên bình đẳng “trước” hay cần cả “trong” và “sau” mỗi qui phạm pháp luật?

Hơn nữa, nếu thuật ngữ "quan hệ bình đẳng" được thừa nhận đi nữa thì thực tế không phải lúc nào trong quan hệ giữa các chủ thể của luật công cũng là bất bình đẳng. Ví dụ như: Các bên trong hợp đồng công vụ giữa các chủ thể của luật công là các cơ quan nhà nước.

Trong luật tư cũng vậy, không phải mọi quan hệ của luật tư cũng đều là bình đẳng. Thực tế trong luật tư cũng có những quan hệ ít nhiều mang tính thứ bậc do địa vị về kinh tế hoặc địa vị xã hội qui định như: quan hệ giữa cha mẹ và con cái dưới 18 tuổi trong Luật gia đình hoặc giữa người tuyển dụng lao động và người lao động trong Luật lao động.6 

c.     Học thuyết dựa trên cơ sở phân loại hành vi của chủ thể

Học thuyết này cũng chưa làm rõ được nhiều vấn đề phát sinh hiện nay là thuộc chế định của luật tư hay luật công. Ví dụ các vấn đề liên quan đến công chứng tư, doanh nghiệp nhà nước đã được tư nhân hóa một phần, trách nhiệm bồi thường nhà nước do người thi hành công vụ gây ra v.v…

Chẳng hạn hiện nay ở Đức việc xác định vấn đề trách nhiệm bồi thường nhà nước là thuộc lĩnh vực luật công hay luật tư vẫn là đề tài có nhiều ý kiến tranh luận. Có người cho rằng đó là một chế định của luật công vì cho rằng bản chất đây là quan hệ giữa một bên là nhà nước và một bên là người bị thiệt hại do hành vi của người thi hành công vụ gây ra (Điều 34 Câu 1 Luật cơ bản).7 Có người cho rằng đây là một chế định của luật tư vì lý thuyết bồi thường nhà nước ra đời là do đòi hỏi nhà nước pháp quyền, bản chất quan hệ giữa nhà nước và người bị thiệt hại ở đây là quan hệ bình đẳng, bên nào gây ra thiệt hại thì bên đó phải bồi thường và Tòa án có thẩm quyền giải quyết theo luật là Tòa dân sự, không phải là Tòa hành chính (Điều 839 Bộ luật dân sự, Điều 34 Câu 3 Luật cơ bản).8 Cụ thể hơn trong lĩnh vực này, nếu chỉ căn cứ vào yếu tố hành vi bên ngoài cũng rất khó để xác định ranh giới luật công và luật tư, chẳng hạn như trường hợp một cảnh sát gây thiệt hại cho một công dân trong quá trình thi hành công vụ, về hình thức đây là trường hợp thuộc trách nhiệm bồi thường nhà nước, nhưng nếu ẩn sau hành vi gây thiệt hại đó là một động cơ cá nhân thì nhà nước có bồi thường không và thuộc lĩnh vực luật công hay luật tư? Làm thế nào để xác định điều này? Hoặc trong trường hợp hành vi thực hiện chức năng hành chính của nhà nước, nhưng dưới hình thức tổ chức của luật tư trong lĩnh vực luật tư hành chính9 mà gây thiệt hại cho bên thứ ba, ví dụ cảnh sát thuê một công ty tư nhân vận chuyển một chiếc xe đỗ trái phép. Hành vi của công ty tư nhân có phải là hành vi nhân danh công quyền thực hiện chức năng, nhiệm vụ của nhà nước hay không? Khi thực hiện việc vận chuyển chiếc xe đỗ trái phép đó mà gây thiệt hại thì trách nhiệm bồi thường sẽ thuộc về ai? Vấn đề này hiện còn bỏ ngỏ và gây rất nhiều tranh cãi ở Đức.10

Như vậy, ngay cả với học thuyết phân loại hành vi, nếu chỉ dựa vào duy nhất một tiêu chí là căn cứ vào hành vi của chủ thể thì trong nhiều trường hợp cũng không làm rõ được vấn đề pháp lý thuộc lĩnh vực nào, luật công hay luật tư. Thực tế hiện nay ở Đức khi cần phải nhận diện một qui phạm pháp luật nào đó thuộc luật công hay luật tư, các nhà khoa học vận dụng đồng thời cách thức phân chia của cả ba học thuyết nói trên, dựa trên cả ba tiêu chí lợi ích, quan hệ giữa các chủ thể và hành vi của các chủ thể để xác định.11

Chính sự hạn chế của các học thuyết phân chia luật công và luật tư ở Đức nên việc xác định lĩnh vực pháp luật cụ thể nào thuộc luật công và những lĩnh vực pháp luật nào thuộc luật tư cũng còn có những ý kiến khác nhau.12

Theo từ điển pháp luật và các giáo trình luật ở Đức thì các lĩnh vực pháp luật được phân chia như sau:

Những lĩnh vực pháp luật thuộc luật tư gồm:

–    Luật dân sự,

–    Luật kinh doanh (bao gồm Luật thương mại, Luật doanh nghiệp và Luật cạnh tranh,

–    Luật về séc và các giấy tờ có giá trị,

–    Luật lao động,

–    Luật bảo hiểm tư nhân13.

Những lĩnh vực pháp luật thuộc luật công được hiểu theo hai nghĩa:

–    Nghĩa hẹp, luật công chỉ bao gồm luật nhà nước và luật hành chính.

–    Nghĩa rộng, luật công còn bao gồm cả Luật hình sự, Luật tố tụng (bao gồm luật tố tụng hình sự và tố tụng dân sự, Luật thuế, Luật quốc tế  và Luật liên minh Châu Âu.14

3.     Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tế

Phân định ranh giới giữa luật công và luật tư là việc làm cần thiết và có ý nghĩa nhiều mặt cả về mặt lý luận và thực tế ở Đức.

Về lý luận, việc phân chia này sẽ giúp xây dựng và đảm bảo sự thống nhất, chặt chẽ của cả hệ thống pháp luật.

Về thực tế, việc xác định ranh giới giữa luật công và luật tư đem lại hiệu quả thiết thực đối với cả ba hoạt động xây dựng pháp luật, áp dụng pháp luật và hoạt động xét xử.

Đối với hoạt động xây dựng pháp luật, việc phân chia ranh giới giữa luật công và luật tư sẽ giúp các nhà làm luật xác định được vấn đề nào cần phải điều chỉnh, điều chỉnh bằng phương pháp gì, mức độ điều chỉnh ra sao thì phù hợp. Chẳng hạn, khi xác định vấn đề pháp luật cạnh tranh là lĩnh vực thuộc luật tư thì nhà làm luật sẽ không dùng những phương pháp hoặc công cụ có tính mệnh lệnh, hành chính để điều chỉnh hay áp đặt cho những quan hệ pháp luật của lĩnh vực này.

Đối với hoạt động áp dụng pháp luật, khi đã xác định được vấn đề nào thuộc luật công, vấn đề nào thuộc luật tư, việc vận dụng qui phạm pháp luật để giải quyết cho phù hợp cho từng trường hợp cũng như việc xác định hậu quả pháp lý sẽ trở nên thuận lợi, dễ dàng hơn. Chủ thể áp dụng pháp luật có thể xác định được nguyên tắc, biện pháp hay công cụ nào được sử dụng. Tuy nhiên trên thực tế, một tình huống pháp luật thường liên quan đến cả các qui phạm của luật công và luật tư, do vậy việc áp dụng pháp luật của cơ quan hành chính cần phải có am hiểu một cách đầy đủ các qui định pháp luật của cả luật công và luật tư.

Ví dụ một vụ tai nạn giao thông ở Đức, để giải quyết hậu quả pháp lý, có thể cần đến việc xem xét nhiều qui phạm pháp luật liên quan đồng thời đến cả luật công và luật tư, tùy tính chất, mức độ. Cụ thể:

- Liên quan đến vấn đề bồi thường thiệt hại: Điều 7 Luật giao thông đường bộ, Điều 823 Bộ luật dân sự và Điều 1 Luật bảo hiểm trách nhiệm.

- Liên quan đến việc tước bằng lái xe: Nếu người điều khiển phương tiện mà nồng độ cồn trong máu hoặc trong khí thở vượt quá mức cho phép có thể bị tước bằng lái xe (Điều 3 Luật giao thông đường bộ).

- Liên quan đến truy cứu trách nhiệm hình sự: Nếu điều khiển phương tiện gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khỏe hoặc tính mạng người khác thì căn cứ vào kết luận của cảnh sát hoặc cơ quan công tố, người điều khiển phương tiện có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo Điều 315c hoặc 316 Bộ luật hình sự.

- Liên quan đến trách nhiệm bồi thường nhà nước: Nếu người điều khiển phương tiện là cảnh sát đang trong quá trình thi hành công vụ mà gây tai nạn cho công dân một cách có lỗi thì trường hợp này lại liên quan đến trách nhiệm bồi thường của nhà nước do người thi hành công vụ gây ra (theo Điều 34 Luật cơ bản, Điều 839 Bộ luật dân sự).

Trong hoạt động xét xử, việc xác định vấn đề pháp lý nào thuộc lĩnh vực luật công hay luật tư cũng có ý nghĩa rất quan trọng. Trước hết việc xác định tranh chấp thuộc lĩnh vực nào sẽ xác định được rõ vấn đề Tòa án nào có thẩm quyền giải quyết, qui phạm pháp luật nào sẽ được thẩm phán vận dụng để xử lý tình huống pháp lý. Ngày nay đứng trước xu hướng tư nhân hóa, xã hội hóa các nhiệm vụ của nhà nước, ngày càng nhiều những chủ thể thực nhiện chức năng hành chính nhưng lại hoạt động dưới hình thức pháp lý của luật tư (thuộc lĩnh vực luật tư hành chính) ví dụ như hoạt động “công chứng tư”. Vấn đề pháp lý đặt ra là khi thực hiện những công việc thuộc chức năng hành chính như vậy mà gây thiệt hại cho một bên thứ ba thì đó là quan hệ pháp luật hành chính (thuộc luật công) hay quan hệ dân sự (thuộc luật tư), Tòa án nào sẽ có thẩm quyền thụ lý giải quyết vụ việc: Tòa hành chính hay Tòa dân sự? Ở Đức, đây là vấn đề cũng còn gây nhiều tranh cãi15, mặc dù, dưới góc độ luật thực định, trong những trường hợp như vậy, pháp luật vẫn qui định Tòa dân sự có thẩm quyền giải quyết, nhằm mục đích bảo vệ lợi ích của cá nhân, tổ chức bị xâm hại (Điều 34 Khoản 3 Luật cơ bản 1949, Điều 14 Khoản 3 Câu 4 Luật cơ bản 1949, Điều 839 Bộ luật dân sự Đức 1900).

Tóm lại, qua việc nghiên cứu dưới góc độ lý luận - lịch sử các học thuyết phân chia giữa luật công và luật tư, lấy ví dụ từ thực tiễn pháp luật của CHLB Đức như trên, có thể rút ra những nhận định khoa học như sau:

–    Tư tưởng, học thuyết về phân chia hệ thống pháp luật thành luật công và luật tư đã xuất hiện rất sớm từ thế kỷ thứ I TCN, ở La Mã cổ đại. Trong số những tư tưởng học thuyết về vấn đề này, đến nay về mặt lý thuyết ở Đức tồn tại ba học thuyết: Học thuyết dựa trên cơ sở lợi ích, học thuyết dựa trên cơ sở quan hệ giữa các chủ thể  và học thuyết dựa trên cơ sở phân loại hành vi của chủ thể. Quá trình hình thành và phát triển của những học thuyết này cho thấy sự đa dạng của các học thuyết, các cách thức phân chia và dòng chảy liên tục của lịch sử trong việc tìm lời giải xác định ranh giới giữa luật công và luật tư.

–    Các học thuyết nói trên đều có những ưu điểm, đều dựa trên những tiêu chí xác định cụ thể. Tuy vậy cả ba học thuyết cũng đều chứa đựng những hạn chế nhất định và chưa có học thuyết nào giải đáp các trường hợp trên thực tế phát sinh ngày càng đa dạng một cách rạch ròi, đầy đủ, toàn diện đâu là luật công, đâu là luật tư. Chính vì lý do đó, các nhà khoa học pháp lý ở Đức hiện nay vận dụng đồng thời những giá trị tích cực, cách thức phân chia của cả ba học thuyết này, trên cả ba tiêu chí lợi ích, quan hệ giữa các chủ thể và hành vi của các chủ thể.

–    Các nhà lý luận luôn muốn phân chia rõ ràng giữa luật công và luật tư, nhưng trên thực tế bản chất các tình huống pháp lý phát sinh lại không rạch ròi như vậy. Chính sự đa dạng và phát triển liên tục của các quan hệ pháp lý dẫn đến việc phân chia các lĩnh vực thuộc luật công và luật tư ở Đức về lý luận cũng chỉ có giá trị tương đối.

–    Quan hệ xã hội và quan hệ pháp luật luôn đa dạng, đa chiều và phức tạp. Rắc rối chính nằm ở chỗ một tình huống pháp luật phát sinh, với tính chất, mức độ khác nhau, đều có thể đồng thời trực tiếp hay gián tiếp liên quan đến các qui phạm pháp luật của cả luật công và luật tư. Đây mới thực sự là vấn đề gây đau đầu các nhà lý luận và là điều lý thú muôn đời trong quan hệ giữa lý luận pháp luật và thực tế cuộc sống.

–    Ngày nay xu hướng tư nhân hóa, xã hội hóa những nhiệm vụ của nhà nước diễn ra ngày càng mạnh mẽ ở hầu hết các quốc gia. Điều này cũng khiến cho vị trí, vai trò của nhà nước liên tục có sự thay đổi. Khi nhà nước không còn “đứng trên” hay “đứng ngoài”, mà “đứng trong” pháp luật, nhà nước là “một bên” trong các quan hệ pháp luật, bình đẳng như mọi công dân, tổ chức khác, thì vấn đề phân chia ranh giới giữa luật công và luật tư có lẽ cũng nên đặt ra nhu cầu mới phải nhận thức lại hoặc thay đổi.

---



1 Meder, Rechtsgeschichte, 2. Aufl. 2005, S. 84 f.
2 Nguyên bản Tiếng la tinh "Publicum ius est quod ad statum rei Romanae spectat, privatum quod ad singulorum utilitatem". Dịch sang Tiếng Đức: "Öffentliches Recht ist das, was sich auf die Ordnung des römischen Staates bezieht, Privatrecht das, was sich auf die Interessen der Einzelnen bezieht". (Nguồn: Schmoeckel/ Stolte, Examinatorium Rechtsgeschichte, 2008, S. 139). Dịch sang Tiếng Việt: Luật công là luật liên quan đến trật tự của nhà nước La Mã, luật tư là luật liên quan đến lợi ích của cá nhân (Tác giả).
3 Người đầu tiên xây dựng học thuyết quan hệ giữa các chủ thể này là nhà luật học người Đức Robert von Mohl (1799 – 1875). Mohl là nhà luật học nổi tiếng, là cha đẻ của học thuyết nhà nước pháp quyền. Ông là người đầu tiên đưa ra khái niệm nhà nước pháp quyền ở Đức (Rechtsstaat) và chỉ ra rằng nhà nước pháp quyền là nhà nước đối lập với nhà nước cảnh sát (Polizeistaat).
4 Schoch/Schmidt-Aßmann/Pietzner, Verwaltungsgerichts-ordnung, Kommentar, Stand: Juli 2009 (18. Ergänzungslieferung), 40, Rn. 235 ff.; Wolff/ Bachof/ Stober, Verwaltungsrecht, Bd. 1, 12. Aufl., 2007, 22, Rn. 28 ff.
5 Xem: Ipsen, Allgemeines Verwaltungsrecht, 2000, Rn 16ff.
6 Xem: Ipsen, Allgemeines Verwaltungsrecht, 2000, Rn 21 ff.; Hufen, Verwaltungsprozessrecht, 4. Aufl., 2000, S. 3 ff.
7 Baldus/Grzeszick/Wienhues, Staatshaftungsrecht, Das Recht der öffentlichen Ersatzleistungen, 3 Aufl., 2009, Rn. 6–10.
8 Detterbeck/ Windthorst/Sproll, Staatshaftungsrecht, 2000, S. 3.
9 Luật tư hành chính (Verwaltungsprivatrecht) ở Đức là lĩnh vực mà các cơ quan hành chính nhà nước thực hiện chức năng nhiệm vụ hành chính thông qua hình thức của Luật tư (Privatrechtliches Handeln der öffentlichen Verwaltung). Những hành vi này được thực hiện chủ yếu trong lĩnh vực dịch vụ vì lợi ích công cộng (Daseinsvorsorge), phục vụ những nhu cầu thiết yếu như điện, nước, giáo dục, y tế v.v... Để phân biệt giữa luật tư hành chính và luật công hành chính, nhà luật học người Đức Hans Peter Ipsen đã xây dựng và phát triển học thuyết hai cấp độ - Zweistufentheorie. (Xem: Sodan/Ziekow, Grundkurs Öffentliches Recht, 4. Aufl., 2010, S. 450).
10 Peine, Allgemeines Verwaltungsrecht, 7. Aufl., 2004, Rn. 63 ff.
11 Sodan/Ziekow, Grundkurs Öffentliches Recht, 4. Aufl., 2010, S. 450 ff.
12 So sánh quan điểm của các tác giả khác nhau về vấn đề này: Gröpl, Staatsrecht I, 3. Aufl., 2011, Rn.107f.; Giống: Sodan/Ziekow, Grundkurs Öffentliches Recht, 4. Aufl., 2010, S.450ff. Khác: Creifelds, Rechtswörterbuch, 19. Aufl., 2007, S. 931.
13 Creifelds, Rechtswörterbuch, 19. Aufl., 2007, S. 931.
14 Gröpl, Staatsrecht I, 3. Aufl., 2011, Rn.107f.; Sodan/Ziekow, Grundkurs Öffentliches Recht, 4. Aufl., 2010, S.450ff.
15 Sodan/Ziekow, Grundkurs Öffentliches Recht, 4. Aufl., 2010, S. 450ff.
Bài viết cùng tác giả: 
- Vì sao cần phải có tự do ngôn luận 
- Khi Hiến pháp là công cụ bảo vệ dân quyền
- Ván hiến pháp nổi tiếng về biểu tình Đức năm 1986

- Trường phái pháp luật lịch sĐức 
- Trao đổi về bài viết: "Tội giết người không có người chết?"
- Hiến pháp 1946: Thể hiện cơ chế phân công và kiểm soát quyền lực nhà nước 
- Cấm chơi golf ngày nghỉ và những nhầm lẫn về pháp luật
- Tiếp cận pháp luật từ góc nhìn văn hóa
- Phân định ranh giới giữa luật công và luật tư Đức: Lịch sử, tranh luận và gợi m 
- Lập hiến hướng đến pháp quyền ở Việt Nam