Nguyễn Minh Tuấn
Nguồn: Báo NguoiViet.de
đăng ngày 14/3/2012,
Luật cơ bản (Grundgesetz) là văn bản pháp lý có giá trị và hiệu lực cao nhất trong
hệ thống văn bản qui phạm pháp luật ở Đức hiện nay. Hơn
60 năm, trải qua bao biến cố lịch sử, văn bản pháp lý này vẫn chứng tỏ
sức sống kì diệu của nó và vẫn tiếp tục có đóng góp quan trọng vào sự
phát triển chung trên nhiều phương diện ở nước Đức. Câu hỏi đặt ra
vậy đâu là những giá trị căn bản nhất, những giá trị có tính chất nền
tảng, quyết định nhất khiến cho văn bản pháp lý này có sức sống lâu dài
như vậy? Qua tìm hiểu, nghiên cứu, tôi cho rằng Luật cơ bản Đức có ba giá trị cốt lõi nhất và có ý nghĩa nhất sau đây:
Thứ nhất, những giá trị của "Tinh thần Hiến pháp dân chủ" có từ trong lịch sử ở Đức đã được kế thừa, tiếp thu có chọn lọc và thể hiện trong Luật cơ bản Đức
Luật cơ bản của Đức không phải
xuất phát từ hư vô, từ con số không, mà là sự tiếp nối những giá trị của Hiến pháp trong suốt một
chiều dài lịch sử lập hiến của nước Đức. Tháng
8/1948, Ủy ban soạn thảo Hiến pháp bao gồm các chuyên gia luật học hàng đầu về
Luật hiến pháp (Staatrechtlers) ở Đức đã được thống đốc của các bang triệu tập ở
Bayern để bàn thảo xây dựng Luật cơ bản. Trong Hội nghị này các nhà khoa học đã đặt
ra vấn đề cần phải tìm ra được những gì còn phù hợp, có thể tiếp tục kế
thừa và những gì cần sửa đổi trong hai bản Hiến pháp dân chủ trước đây là
Hiến pháp nhà thờ thánh Paul và Hiến pháp Cộng hòa Weimar.
một chương
riêng, viện dẫn trực tiếp các Điều
khoản của hiến pháp Weimar, với 31 điều (từ Điều 116 đến Điều 146 Luật cơ bản). Chính điều này làm cho một phần của Hiến pháp
Weimar như được sống lại và tiếp tục phát huy những giá trị của nó trong Luật cơ bản 1949.
Thứ hai, chế độ dân chủ đã được vĩnh viễn hóa, một hệ thống các quyền cơ bản của công dân
có chất lượng và có sức mạnh thi hành đã được thể hiện đầy đủ trong Luật cơ bản
Với qui định của Điều 79 khoản 3 LCB, nền tảng của chế độ dân chủ ở Đức được hình thành và bảo vệ vững chắc. Điều luật này chỉ rõ: các qui định về
nhân phẩm của con người (Menschenwürde) tại Điều 1 và các nguyên tắc nhà nước cộng
hòa, dân chủ, pháp quyền, liên bang (Verfassungsgrundsätze) tại Điều 20 là
không thể thay đổi vì bất kỳ lý do nào. Hay nói cách khác, Điều khoản này đã vĩnh viễn
hóa những đặc trưng nền tảng về dân chủ, pháp quyền của nhà nước Đức, vĩnh viễn
hóa một chân lý: “Phẩm giá của con người là giá trị cao nhất và không thể
bị xâm phạm”.
Luật cơ bản Đức 1949 đã có sự tách biệt rõ đâu là quyền (Rechte) và đâu là nghĩa vụ (Pflichte) cơ bản của công dân (Điều 1-19), điều này hoàn toàn khác với Hiến pháp của Cộng hòa dân chủ Đức (DDR) 1949, 1968 không có sự tách rời giữa quyền và nghĩa vụ của công dân (giống với Điều 51 Câu 1 Hiến pháp Việt Nam năm 1992 hiện hành). Có nghĩa là theo Luật cơ bản 1949 thì đối với một vấn đề, công dân chỉ có quyền hoặc nghĩa vụ, chứ không phải là quyền đồng thời là nghĩa vụ, chẳng hạn như quyền bầu cử (Điều 38 Luật cơ bản) là một quyền tự do, chứ không phải vừa là quyền, vừa là nghĩa vụ giống ở DDR trước đây hay ở Việt Nam hiện nay. Ưu điểm rất rõ qui định này là bất cứ ai khi đọc luật cơ bản cũng có thể hiểu được điều gì được phép làm (quyền) và những gì bắt buộc phải làm (nghĩa vụ).
Về chất lượng các quyền cơ bản, các nhà lập hiến khi xây dựng
Luật cơ bản đã thừa nhận một hệ thống các giá trị khách quan về quyền con người
như: Quyền được sống, quyền bất khả xâm phạm thân thể (Điều 2), quyền tự do tôn
giáo, tín ngưỡng (Điều 4), quyền tự do tư tưởng, tự do báo chí, tự do về khoa học
và nghệ thuật (Điều 5), Quyền tự do biểu tình (Điều 8), Quyền tự do lập hội, cấm
các biện pháp hạn chế đình công (Điều 9), quyền tư hữu (Điều 14)…Các quyền cơ bản
này ngoài chức năng bảo vệ tự do cá nhân còn có chức năng là các quyền tự
vệ của cá nhân đối với nhà nước.
Về sức mạnh thi hành các quyền cơ bản, Điều 19 khoản 4 LCB qui định “Bất cứ ai cho rằng quyền tự
do cơ bản của mình bị xâm hại, đều có quyền khởi kiện lại nhà nước”. Sức mạnh
thi hành của Luật cơ bản thể hiện rõ khi Luật tòa án Hiến pháp
(Bundesverfassungsgerichtgesetz - BVerfGG) năm 1951 ra đời và qui định bổ sung
chế định khiếu kiện Hiến pháp của công dân tại Điều 93 khoản 1 số 4a LCB vào
năm 1969. Từ đó đến nay, từng quyền cơ bản của công dân được bảo vệ, được giải
thích và làm sáng tỏ trong các phán quyết có hiệu lực pháp luật của Tòa án Hiến
pháp liên bang.
Thứ ba, vấn đề về thể chế nhà nước pháp quyền hiện
đại (moderner Rechtsstaat), chính thể đại nghị bền vững (palamentarisches
Regierungssystem) và mô hình Tòa án Hiến pháp liên bang
(Bundesverfassungsgericht) là những nét đặc trưng điển hình trên phương diện tổ chức quyền lực nhà nước được thể hiện trong Luật cơ bản
Luật cơ bản tiếp tục kế thừa và phát triển việc phân chia quyền lực
(Gewaltenteilung) đã có từ Hiến pháp cộng hòa Weimar. Những yếu tố về hình thức và nội dung của nhà nước pháp quyền hiện đại đều được thể hiện rõ nét, đầy đủ trong Luật
cơ bản (Điều 20 Khoản 3, Điều 1 Khoản 3, Điều 20 Khoản 2 Câu 2) và được minh chứng
cụ thể thông qua các phán quyết có hiệu lực pháp luật của Tòa án hiến pháp liên
bang.
Chính thể nước CHLB
Đức hiện nay là chính thể cộng hòa đại nghị điển hình trên thế giới. Khác với
Hiến pháp Cộng hòa Weimar trước đây, Tổng thống không còn là một thiết chế có
nhiều quyền hành. Theo Luật cơ bản, Tổng thống liên bang là một thiết chế đại
diện, không được nhân dân bầu trực tiếp mà được bầu thông qua Hội nghị liên
bang [Bundesversammlung] (Điều 54 Luật cơ bản). Nhân dân trực tiếp bầu
các nghị sĩ Hạ viện liên bang (Điều 38 Luật cơ bản). Hạ viện bầu ra Thủ tướng
theo đề nghị của Tổng thống liên bang (Điều 63 khoản 1 Luật cơ bản). Thủ tướng
thành lập nên Nội các (Điều 64 Luật cơ bản). Thủ tướng có thể bị bất tín nhiệm
và Hạ viện có thể bị giải tán (Điều 67 và Điều 63 khoản 4 Luật cơ bản).
Tòa án Hiến pháp liên bang (Bundesverfassungsgericht) là một
thiết chế có chức năng bảo vệ Hiến pháp và bảo vệ nền dân chủ ở Đức. Thiết chế
này được đánh giá là một trong những mẫu hình bảo hiến thành công nhất trên thế
giới hiện nay. Thẩm quyền của Tòa án này được qui định cụ thể ở nhiều Điều khác
nhau trong Luật cơ bản như Điều 93, Điều 100, Điều 21 Khoản 2, Điều 41 khoản 2,
Điều 61, Điều 93 khoản 1 số 4b. Trong những quy định này, thẩm quyền quan
trọng nhất của Tòa án Hiến pháp gồm: quyền tuyên bố một đạo luật là vi hiến nếu
đạo luật đó trái với Luật cơ bản (Điều 100 khoản 1); quyền giải thích Hiến pháp
(Điều 93 khoản 1 số 2), quyền giải quyết xung đột thẩm quyền giữa các cơ quan
nhà nước ở Liên bang (Điều 93 khoản 1 số 1); quyền giải quyết tranh chấp thẩm
quyền giữa liên bang và tiểu bang (Điều 93 Khoản 1 số 3 và số 4) và đặc biệt là
quyền giải quyết khiếu kiện Hiến pháp của cá nhân (Điều 93 khoản 1 số 4a).
Với nhiều giá trị
tiến bộ kể trên, Luật cơ bản đã vượt ra
khỏi khuôn khổ phạm vi biên giới nước Đức, trở thành giá trị văn minh chung của
nhân loại
và là một trong những hình mẫu rất đáng tham khảo đối với nhiều quốc gia trên thế giới hiện nay muốn
xây dựng
một nhà nước pháp quyền, một nhà nước dân chủ theo nghĩa hiện đại.
H.
Vorländer, Die Deutschen und ihre Verfassung, S. 33 – 40 in: 60 Jahre Grundgesetz,
Aus Politik und Zeitgeschichte, BPB, Nr. 18 – 19/2009, 27/4/2009; K. Niclauß, Die Bundesregierung im
Verfassungssystem, S.33 - 40 in: 60 Jahre Grundgesetz, Aus Politik und
Zeitgeschichte, BPB, Nr. 18 – 19/2009, 27/4/2009.
Xem thêm: K. Niclauß, Die Bundesregierung im
Verfassungssystem, S.33 - 40 in: 60 Jahre Grundgesetz, Aus Politik und
Zeitgeschichte, BPB, Nr. 18 – 19/2009, 27/4/2009; H. Vorländer,
Die Deutschen und ihre Verfassung, S. 33 – 40 in: 60 Jahre Grundgesetz, Aus
Politik und Zeitgeschichte, BPB, Nr. 18 – 19/2009, 27/4/2009.
H.
Vorländer, Die Deutschen und ihre Verfassung, S. 33 – 40 in: 60 Jahre Grundgesetz,
Aus Politik und Zeitgeschichte, BPB, Nr. 18 – 19/2009, 27/4/2009; K. Niclauß, Die Bundesregierung im
Verfassungssystem, S.33 - 40 in: 60 Jahre Grundgesetz, Aus Politik und
Zeitgeschichte, BPB, Nr. 18 – 19/2009, 27/4/2009.
Ở CHLB Đức, những
yêu cầu về hình thức của nhà nước pháp quyền gồm: phân chia quyền lực
[Gewaltenteilung] (Điều 20 Khoản 2 Câu 2), đảm bảo tính tối cao của Hiến
pháp và các đạo luật [Vorrang von Verfassung und Gesetz] (Điều 20 Khoản 3), đảm
bảo tư pháp độc lập và các bảo đảm thủ tục tố tụng [Justizgrundrechte und
Verfahrensgarantie] (Điều 19 Khoản 4), quyền tố tụng Hiến pháp
[Justizgewaehrungsanspruch]) (Điều 94 Khoản 1 số 4a). Những yêu cầu về nội dung của nhà nước pháp quyền gồm: tính chất an
toàn pháp lý [Rechtssicherheit] (ví dụ: Điều 80 Khoản 1 Câu 2), cấm hành xử vô
luật [Willkürverbot] (Điều 3 Khoản 1, Điều 103 Khoản 2) và tính hiệu lực trực
tiếp các quyền cơ bản [Unmittelbare Geltung der Grundrechte]) (Điều 1 Khoản 3).