Nguyễn Minh Tuấn
Nguồn: Báo NguoiViet.de,
đăng ngày 7/3/2012,
truy cập đường link gốc tại đây
Liên quan đến tội giết người, TS. Nguyễn Sỹ Phương đã có loạt bài viết
đăng trên Tia sáng phân tích các khía cạnh khác nhau của tội phạm này theo Luật
hình sự Việt nam và Luật hình sự Đức. Tiếp tục góp bàn về chủ đề này, trong
phần trình bày dưới đây tôi xin chia sẻ hai vấn đề: So sánh qui định về vấn đề
tội phạm, tội giết người đã hoàn thành và tội giết người chưa đạt căn cứ theo Bộ
luật hình sự (BLHS) Đức và Bộ luật hình sự Việt nam và đưa ra quan điểm riêng về
việc có hay không hành vi phòng vệ chính đáng của Đoàn Văn Vươn theo pháp luật
hình sự Việt Nam.
1. So sánh vấn đề tội phạm, tội giết người và phạm tội chưa đạt theo Bộ
luật hình sự Đức và Bộ luật hình sự Việt nam
a. Vấn đề tội phạm
TS. Nguyễn Sỹ Phương trong bài
viết “Bàn định tội danh giết người”
đã cho rằng: "Ở Đức, những tội hình sự liên quan tới tính mạng con
người, nếu chia theo dấu hiệu hậu qủa tội phạm, có thể phân loại thành 2 nhóm
tội danh, nhóm tội danh chấm dứt sự sống của nạn nhân, tức phải có dấu hiệu
người chết, và nhóm tội danh không chấm
dứt sự sống nạn nhân, không có dấu hiệu người chết. Nhóm tội danh có
động cơ chấm dứt sự sống con người nhưng không có dấu hiệu chết người, gồm tội
danh, như: – Tội mưu sát (khi chưa hành
động). – Tìm cách giết người, hay còn gọi giết người bất thành (hành vi
giống tội giết người, nhưng nạn nhân may mắn không chết)."
Tôi không rõ cần căn cứ vào Điều
khoản nào để khẳng định rằng ở Đức có tội mưu sát (khi chưa hành động). Về
nguyên tắc khi chủ thể chưa thể hiện ra
bên ngoài bằng hành vi cụ thể, nếu mới chỉ là dạng âm mưu, tư tưởng, ý nghĩ trong đầu như tác giả gọi là “mưu
sát” (chưa thuộc giai đoạn chuẩn bị phạm tội [Vorbereitungs-stadium] hay phạm
tội chưa đạt [Versuchsstadium]) thì không thể bị coi là tội phạm. Ở Đức, theo
Điều 12 BLHS Đức, dấu hiệu để nhận biết tội phạm trước hết phải là hành vi trái pháp luật (rechtswidrige
Taten/ unlawful acts), tức là hành vi đó phải được thể hiện ra bên ngoài dưới dạng hành động (Tun) hoặc không hành
động (Unterlassen). Pháp luật Việt Nam cũng qui định tương tự như vậy, Điều 8
Khoản 1 BLHS Việt Nam qui định dấu hiệu cơ bản của tội phạm là "hành vi
nguy hiểm cho xã hội được qui định trong Bộ luật hình sự". Còn
với tội “giết người bất thành” (theo
cách gọi của tác giả) hay “giết người
chưa đạt” (theo pháp luật Việt Nam) thì theo tôi chỉ là sự khác nhau về tên
gọi, bản chất mặt khách quan của tội phạm là giống nhau.
b. Tội giết người, tội giết người đã hoàn thành và tội
giết người chưa đạt
Trong bài Sự kiện Đoàn Văn Vươn và nan đề luật hình sự, TS. Nguyễn Sỹ Phương cho rằng:
“Như đã phân tích trong bài “Tội giết người không có người chết?“, cáo
buộc Đoàn Văn Vươn tội Giết người có thể xuất phát từ tư tưởng, quan niệm tư
pháp phổ biến ở ta hiện nay “hành vi giết người là hành vi có khả năng gây ra
cái chết cho con người”, “có khả năng gây ra”, chứ không phải đã gây ra, mang
thì tương lai, tức hành vi phạm tội chưa hoàn thành, nhưng vẫn bị khép tội,
hoàn toàn mâu thuẫn với nguyên lý, chỉ được phép khép tội khi hành vi tội phạm
đã hoàn thành, chẳng hạn không thể cáo buộc tội danh hay hành vi ăn cắp, khi
không nạn nhân nào mất gì cả.
Khi phân tích luật, không thể chỉ
căn cứ vào duy nhất Từ điển Tiếng Việt như TS. Phương đã làm để giải thích mà
cần phải đặt qui phạm đó trong tổng thể Bộ luật, các văn bản pháp luật khác có
liên quan, Từ điển chuyên ngành giải thích thuật ngữ luật học, các giáo trình
Luật hình sự cũng như thực tiễn xét xử để lý giải.
Tội giết người là hành vi cố ý tước đoạt tính mạng của người khác một cách trái pháp luật. Đây
là quan điểm
chung được nhiều người thừa nhận trong khoa học pháp lý ở Việt Nam lâu nay. Cả luật thực định và lý luận đều không thừa nhận định nghĩa mơ hồ “hành vi giết người là hành vi có khả năng
gây ra cái chết cho con người” như tác giả đã đưa ra. Về mặt luật thực định, nhà làm
luật Việt Nam đã thiết kế Điều 93 BLHS tương đối đặc biệt hơn so với các Điều
luật khác trong phần tội phạm, đó là cấu
thành cơ bản của tội phạm ở khoản 1 điều này là các tình tiết định khung tăng
nặng và khoản 2 của điều luật này là cấu thành giảm nhẹ. Nội hàm của
Điều luật này, trong liên hệ với các điều luật khác của Bộ luật hình sự cũng
thể hiện rõ điều kiện bắt buộc thuộc mặt khách quan của tội phạm là phải có
hành vi tước đoạt tính mạng của người khác một cách trái pháp luật. Thực tế
cách diễn đạt qui phạm này về mặt kĩ thuật lập pháp theo tôi là phù hợp và chặt
chẽ.
TS. Nguyễn Sỹ Phương lập luận: “Mỗi tội danh, bao gồm một hoặc nhiều hành vi
phạm tội đã thực hiện cấu thành. Nghĩa là không đủ hành vi phạm tội cấu thành không
được phép khép tội danh đó. Trong trường hợp tội danh đó chưa đạt, nghiã là
chưa đủ hành vi phạm tội cấu thành, [...] tức đồng nghĩa với tội danh khác, tên
gọi của một tội trạng khác, khung hình phạt cũng khác.”
Hiểu thực chất vấn đề tội phạm
hoàn thành và tội phạm chưa đạt rất đơn giản.
Như tôi đã phân tích trong
bài viết “Trao đổi về bài viết: Tội giết
người không có người chết?”, Bộ luật hình
sự của Đức có qui định về phạm tội chưa đạt. Cụ thể phạm tội chưa đạt được
qui định ở phần chung (Allgemeiner
Teil) tại Điều 22, 23 BLHS Đức, còn
tội giết người được qui định ở phần riêng
(Besonderer
Teil) tại Điều 211, 212 BLHS
Đức...
Cũng tương tự như vậy, Điều 18
BLHS Việt Nam qui định về phạm tội chưa đạt ở phần chung và Điều 93 BLHS
Tội giết người ở phần riêng.
Cách kết cấu Bộ luật hình sự thành
phần chung và phần riêng có liên quan đến vấn đề kĩ thuật lập pháp, điều này
những người không chuyên về luật khi đọc luật thường hay bỏ qua. Phần chung
là phần qui định các khái niệm, nguyên tắc được áp dụng chung cho toàn Bộ luật,
còn phần riêng là phần qui định về các tội phạm cụ thể và về nguyên tắc các tội
phạm cụ thể này phải tuân thủ các qui định có tính nguyên tắc đã được qui định
ở phần chung. Do vậy dễ hiểu rằng khi áp dụng Bộ luật hình sự, chủ thể áp
dụng khi xem xét tội giết người chẳng hạn không phải giản đơn chỉ căn cứ vào
Điều 93 BLHS Việt Nam, mà phải đặt điều luật này trong mối liên hệ với các Điều
luật khác thuộc cả phần chung và phần riêng để xử lý, cụ thể trong trường hợp
này là Điều 18 và Điều 93 BLHS Việt nam để xử lý cho trường hợp giết người chưa
đạt. Ở Đức cũng tương tự như vậy, căn cứ vào qui định ở Điều 22, 23 BLHS
Đức về phạm tội chưa đạt ở phần chung và Điều 211, 212 BLHS Đức về tội giết
người ở phần riêng và thực tiễn xét
xử
có thể khẳng định rằng ở Đức có tội “giết người chưa đạt” (Tiếng Đức:
Mordversuch [versuchter Mord], Totschlagsversuch [versuchter Totschlag]).
Về điều kiện của phạm tội chưa
đạt, ở Đức
theo Điều 22 BLHS, hành vi phạm tội chưa đạt phải thỏa mãn hai điều kiện: người
thực hiện hành vi có lỗi cố ý trực tiếp (ein unmittelbares Ansetzen zur
Verwirklichung des Tatbestands) và hậu quả không xảy ra là do nguyên nhân ngoài
ý muốn chủ quan của người thực hiện hành vi đó (einen vorbehaltlosen Entschluss
zur Verwirklichung des Tatbestandes).
Tương tự như vậy, Điều 18 Câu 1
BLHS Việt Nam cũng qui định về hành vi phạm tội chưa đạt là cố ý thực hiện tội phạm nhưng không thực hiện được đến cùng vì những
nguyên nhân ngoài ý muốn của người phạm tội. Căn cứ vào Điều luật này có thể
rút ra ba dấu hiệu xác định trường hợp "phạm tội chưa đạt":
- Một là, người phạm tội đã bắt đầu
thực hiện tội phạm. Người phạm
tội đã bắt đầu thực hiện hành vi khách quan được mô tả trong cấu thành tội phạm.
Ví dụ, kẻ giết người đã bắt đầu thực hiện hành vi tước đoạt sinh mạng người
khác như đã đâm, chém, bắn... là hành vi được mô tả trong cấu thành tội phạm của
tội giết người (Điều 93 Bộ luật hình sự).
- Hai là, người phạm tội chưa
thực hiện tội phạm đến cùng. Hành vi của họ chưa thoả mãn hết các dấu hiệu thuộc mặt khách quan được
mô tả trong cấu thành tội phạm, cụ thể là hậu quả chết người.
- Ba là, người phạm tội không
thực hiện được tội phạm đến cùng là do những nguyên nhân ngoài ý muốn của họ. Bản thân người phạm tội vẫn muốn
tội phạm hoàn thành nhưng tội phạm không hoàn thành là có thể do người
khác đã ngăn chặn được; có những trở ngại khách quan khác như thuốc độc dùng để
đầu độc không đủ liều lượng hoặc thuốc giả; nạn nhân hoặc người bị hại đã chống
lại được hoặc đã tránh được...
Về mặt lý luận, căn cứ vào mục đích thực hiện của
hành vi phạm tội, phạm tội chưa đạt có thể được phân chia thành hai trường hợp
chưa đạt chưa hoàn thành và chưa đạt đã hoàn thành:
- Chưa đạt chưa hoàn thành (về hành vi) là trường hợp người
phạm tội chưa thực hiện hết các hành vi phạm tội cần thiết để gây hậu quả. Ví dụ,
đối với tội hiếp dâm (Điều 111 BLHS) nếu người phạm tội chỉ mới dùng một trong
những hành vi như dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực…nhưng chưa giao cấu được với
nạn nhân thì được xem là phạm tội chưa đạt chưa hoàn thành.
- Chưa đạt đã hoàn thành là trường hợp người phạm tội đã thực
hiện được những hành vi cần thiết cho rằng để đạt được mục đích (hậu quả),
nhưng hậu quả không xảy ra do những nguyên nhân ngoài ý muốn. Ví dụ, đối với tội
giết người (Điều 93 Bộ luật hình sự), mặt khách quan đòi hỏi phải có hành vi tước
đoạt sinh mạng của người khác một cách trái pháp luật và hậu quả là phải có người
chết từ hành vi đó. Tuy nhiên nếu chỉ có hành vi tước đoạt sinh mạng một cách
trái pháp luật (đầu độc, bắn, đâm, chém…vào những vùng trên cơ thể có thể dẫn đến
chết người…) nhưng hậu quả chết người chưa xảy ra thì được xem là phạm tội chưa
đạt đã hoàn thành.
c. Trách nhiệm
hình sự đối với trường hợp phạm tội chưa đạt
Điều 23 Khoản 2 BLHS Đức qui định
tội phạm chưa đạt có thể được xử phạt nhẹ hơn (milder) tội phạm đã hoàn thành.
Điều 18 Câu 2 BLHS Việt Nam cũng nêu rõ: “Người phạm tội chưa
đạt phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm chưa đạt.” Như vậy, mọi trường hợp phạm tội chưa đạt ở
cả hai nước Việt Nam và Đức đều phải chịu trách nhiệm hình sự vì người phạm
tội đã có hành vi nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm hại đến khách thể được luật
hình sự hai nước bảo vệ.
Về trách nhiệm hình sự đối với trường hợp phạm tội
chưa đạt, ở Đức Điều 49 khoản 1 BLHS
qui định: “Nếu có qui định về xử phạt nhẹ
hơn (Milderung) trong Bộ luật này thì việc giảm nhẹ được tiến hành theo các qui
tắc sau đây: 1. Nếu thuộc trường hợp tù chung thân thì áp dụng mức giảm nhẹ là
hình phạt tù không dưới 3 năm. 2. Nếu thuộc trường hợp tù có thời hạn thì áp
dụng mức tối đa là bằng ba phần tư mức cao nhất của hình phạt tù có thời hạn.
Trong trường hợp phạt tiền thì cũng áp dụng tương tự qui định này đối với mức
cao nhất của thu nhập một người sau thuế trung bình tính theo đơn vị ngày (Tagessätze).
3. Đối với phạt tù tương ứng với trường hợp 10 hoặc 5 năm thì mức giảm nhẹ nhất
là xuống còn 2 năm, nếu là phạt tù 3 hoặc 2 năm thì mức giảm nhẹ nhất xuống còn
6 tháng, nếu là phạt tù 1 năm thì mức giảm nhẹ nhất xuống còn 3 tháng, ngoài ra
còn phải căn cứ vào mức giảm nhẹ cụ thể khác qui định trong Bộ luật này.”
Ở Việt Nam, Nghị quyết số 01/2000/NQ-HĐTP ngày
4/8/2000 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một
số quy định trong phần chung của Bộ Luật Hình sự năm 1999 tại mục 2 điểm c qui
định: Khi quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội
chưa đạt, ngoài việc phải áp dụng điểm, khoản, điều luật quy định về tội phạm đó, cần phải áp dụng
Điều 18
và các khoản 1 và 3 Điều 52 BLHS. Theo qui định Điều 52 Khoản 3 BLHS Việt Nam nếu điều luật được áp dụng có quy định hình
phạt cao nhất là tù chung thân hoặc tử hình, thì chỉ có thể áp dụng các hình
phạt này trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng; nếu là tù có thời hạn thì mức hình phạt không quá ba phần tư mức phạt
tù mà điều luật quy định. Trên thực tế ở Việt Nam không phải lúc nào người phạm tội chưa đạt cũng
phải chịu trách nhiệm hình sự về tội định phạm. Chẳng hạn, hành vi trộm cắp tài
sản theo Điều 138 Khoản 1 BLHS Việt Nam nhưng giá trị tài sản dưới 2 triệu đồng
mà chỉ là lần đầu, không gây hậu quả nghiêm trọng thì cũng không thể bị truy cứu trách nhiệm
hình sự về tội trộm cắp tài sản ở giai đoạn chưa đạt mà chỉ bị xử phạt hành
chính về hành vi này.
d. Việc áp dụng tội danh giết người chưa đạt trên thực tế
Khi áp dụng pháp luật hình sự
quan trọng nhất là phải qui tội một cách khách quan. Nếu sử dụng các vũ khí nguy hiểm
mà người phạm tội ý thức rõ được rằng hành vi của mình chắc chắn sẽ gây chết
người hoặc việc sống sót của nạn nhân là ngoài mong muốn của người phạm tội,
thì tội giết người vẫn đủ điều kiện cấu thành. Tuy nhiên khi áp dụng qui định này quan trọng là
phải chứng minh được hành vi khách quan không phải là chỉ cố ý gây thương
tích mà là cố ý tước đoạt sinh mạng của người khác và ý thức chủ quan là cố ý trực
tiếp giết người. Ví dụ việc dùng hung khí nguy hiểm như mã tấu, dao, súng
nhằm đúng vào những bộ phận quan trọng của cơ thể người khác ví dụ như vào
chính giữa đỉnh đầu để chém thì cho dù hậu quả chết người không xảy ra thì theo
pháp luật Việt Nam vẫn phạm tội giết người, vì khi sử dụng các hung khí, phương
tiện nguy hiểm đó bị cáo buộc phải nhận thức rõ được hành vi của mình là nguy
hiểm và có thể dẫn tới tước đoạt tính mạng của người khác.
Ngoài ra còn phải xem xét thái
độ chủ quan của người phạm tội có mong muốn hậu quả chết người xảy ra hay không.
Bởi lẽ không thể nói họ chưa đạt cái mà
họ không mong muốn. Nếu người phạm tội không mong muốn hậu quả chết người
xảy ra và “bỏ mặc” hậu quả xảy ra, hậu quả chỉ là thương tích, mà kết luận họ
giết người chưa đạt thì rõ ràng là không hợp lí. Như vậy, khi kết luận về
trường hợp giết người chưa đạt phải có
căn cứ chứng minh được mặt chủ quan của người phạm tội có lỗi cố ý trực tiếp
(Điều 9 Khoản 1 BLHS Việt Nam), tức là ý chí của người phạm tội mong muốn hậu
quả chết người xảy ra nhưng hậu quả đã không xảy ra do các nguyên nhân ngoài ý
muốn của người phạm tội. Điều này hoàn toàn khác với trường hợp phạm tội cố ý gây thương tích, vì với trường hợp cố ý
gây thương tích thì người phạm tội chỉ mong muốn hậu quả thương tích xảy ra và
thái độ chủ quan của người phạm tội là lỗi cố ý gián tiếp tức là tuy
không mong muốn nhưng có ý thức bỏ mặc cho hậu quả xảy ra (Điều 9 Khoản 2 BLHS
Việt nam). Tóm
lại, hậu quả nạn nhân chết hay chỉ bị thương, theo pháp luật hình sự Việt Nam
không phải là căn cứ duy nhất để phân biệt nhóm tội giết người với các loại tội
xâm phạm sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người khác ở Chương XII Bộ luật
hình sự.
e. Nhận xét
Trong bài viết
Bàn định tội danh giết người,
tác giả TS. Nguyễn Sỹ Phương nhận định: "Như vậy, chiểu theo các
tội danh liệt kê trên, đối chiếu với tường thuật vụ án, bị can Đoàn Văn Vươn
chỉ có thể bị cáo buộc 1 trong 3 tội danh: 1- Mưu sát, nếu có bằng chứng bị can
lên kế hoạch tỷ mỷ giết những ai. 2- Tìm cách giết người, nếu chứng minh được
hoặc ông Vươn trực tiếp nổ súng giật mìn, hoặc tổ chức nổ súng giật mìn; nạn
nhân lẽ ra đã phải chết, nhưng thoát được, hoàn toàn nhờ yếu tố tự nhiên may
mắn. 3- Tự vệ gây thương tích, nếu 2 tội danh trên không được thành lập, và
chứng minh được hành vi công vụ cưỡng chế là hợp pháp." Đọc nhận định
này,
tôi không rõ ý mục đích bài viết là gì, không rõ tác giả muốn phê phán Bộ luật
Hình sự Việt nam hay muốn phê phán việc qui tội danh đối với anh Vươn? Theo tôi, nếu phê phán việc định
tội danh đối với anh Vươn thì cần dựa vào
quy định pháp luật Việt Nam hiện hành để xem xét, không thể lấy luật Đức để áp dụng cho trường hợp của anh Vươn.
Còn nếu phê phán Bộ luật Hình sự Việt Nam trên cơ sở tham chiếu Bộ luật hình sự
của Đức, tác giả phải chỉ ra được hạn chế cụ thể của Bộ luật hình sự Việt Nam
về tội giết người và ưu điểm nổi bật của Bộ luật hình sự Đức về vấn đề này.
Nếu xem xét dưới góc độ luật thực
định thì Bộ luật hình sự Việt Nam năm 2009 không dùng từ “khả năng” đối với cấu thành tội giết người tại Điều 93 BLHS
Việt Nam (từ "khả năng" chỉ xuất hiện ở Khoản 1, điểm l với tính chất là tình tiết định khung tăng nặng). Bộ luật hình sự
Việt Nam và Bộ luật hình sự Đức đều qui định
về tội phạm hoàn thành và tội phạm chưa hoàn thành, đều có qui định cụ
thể về hình phạt áp dụng đối với trường hợp phạm tội chưa đạt.
Tuy nhiên, nếu xem xét dưới góc
độ thực tiễn áp dụng pháp luật thì hiện ở Việt Nam nhiều nơi có tồn tại tình trạng chủ thể khi áp dụng pháp luật
không qui tội khách quan tức là không căn cứ vào những yếu tố khách quan và
căn cứ vào đầy đủ các yếu tố cấu thành tội phạm để định tội danh mà qui tội
một cách chủ quan theo hướng suy nghĩ của họ. Điều này TS. Phương phê phán tôi
nghĩ là đúng. Cá nhân tôi cho rằng nguyên
nhân có thực trạng áp dụng pháp luật một cách tùy tiện mà TS. Phương đã phân
tích không hẳn là do Bộ luật hình sự Việt Nam 2009 “quá lạc hậu” hay “không hội
nhập thế giới” mà thực chất nằm
ở một vấn đề khác rộng và lớn hơn đó chính là do cơ chế, thủ tục tố tụng và con
người áp dụng pháp luật. Vấn đề này thực tế quá lớn, vượt ngoài
khuôn khổ, phạm vi bài viết có tính chất trao đổi này.
2. Tiếp tục làm rõ vấn đề có hay không hành vi phòng vệ chính đáng trong
vụ việc Đoàn Văn Vươn theo pháp luật hình sự Việt Nam
Không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt
khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật (Điều 72 Câu 1
Hiến pháp 1992). Hiện nay chưa có cơ
quan nào kết luận hay tuyên bố cuối cùng rằng Đoàn Văn Vươn đã phạm tội giết
người. Đây mới là quyết định khởi tố bị can. Để có một bản án chính
thức cuối cùng phải trải qua một quá trình tố tụng gồm nhiều giai đoạn khác như
điều tra, truy tố và xét xử.
Căn cứ
vào Điều 15 BLHS 2009,
căn cứ vào chỉ thị số 07/TATC ngày 22/12/1983 của Toà án nhân dân tối cao, Nghị
quyết số 02/HĐTP-TANDTC/QĐ ngày 05/01/1986 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân
dân tối cao hướng dẫn áp dụng pháp luật cho trường hợp phòng vệ chính đáng và
xem xét nội dung vụ án, theo tôi hành vi của anh em Đoàn Văn Vươn thỏa mãn các
điều kiện của phòng vệ chính đáng vì:
Thứ nhất, hành vi tấn công của lực lượng cưỡng chế là hành vi bất hợp pháp, xâm
hại lợi ích hợp pháp của gia đình Đoàn Văn Vươn
Hành vi tấn công bất hợp pháp của lực lượng cưỡng chế chính là cơ sở làm phát sinh quyền
phòng vệ chính đáng của anh em Đoàn Văn Vươn. Những hành vi này xậm hại trực
tiếp đến lợi ích về tài sản và lợi ích về nhân thân của gia đình Đoàn Văn Vươn.
Thứ hai, hành vi tấn công của lực lượng
cưỡng chế là có thật và đang diễn ra chứ không phải do suy đoán hay tưởng tượng
Hành vi tấn công của lực lượng
cưỡng chế rõ ràng là đang hiện hữu, đang xảy ra, hành vi đó đã bắt đầu và chưa
kết thúc nên cho phép người phòng vệ chống trả lại để ngăn chặn hành vi tấn
công.
Hành vi dùng hung khí nguy hiểm
của lực lượng cưỡng chế tấn công, cho dù hậu quả chưa xảy ra cũng cần phải được
xem là hành vi nguy hiểm đáng kể đang diễn ra đối với gia đình Đoàn Văn Vươn
tại thời điểm đó.
Thứ ba, về mặt lý thuyết phòng vệ chính đáng không chỉ gạt bỏ sự đe dọa, đẩy
lùi sự tấn công mà còn có thể phải gây thiệt hại cho chính người đang có hành
vi tấn công
Việc gây thiệt hại cho người đang
tấn công trong trường hợp này là trong phạm vi được pháp luật cho phép. Anh
Vươn gây thiệt hại cho chính những đối tượng đang tấn công, mục đích là nhằm
đẩy lùi sự tấn công bất hợp pháp của chính quyền và bảo vệ lợi ích chính đáng,
hợp pháp của gia đình mình.
Thứ tư, hành vi phòng vệ của gia đình Đoàn Văn Vươn là hành vi chống trả cần
thiết và tương xứng.
Sở dĩ có thể coi anh em Đoàn Văn
Vươn có chống trả cần thiết và tương xứng vì:
Hành vi phòng vệ của anh em Đoàn Văn Vươn là
hoàn toàn cần thiết vì địa điểm thực
hiện hành vi là chỗ ở riêng của họ, hoàn toàn không nằm trong diện tích đất bị
cưỡng chế. Hành vi dùng súng và đưa công an, quân đội tấn công chỗ ở của gia
đình Đoàn Văn Vươn bất hợp pháp rõ ràng là hành vi xâm phạm chỗ ở, một hành
động vi phạm nghiêm trọng một trong những quyền tự do thiêng liêng nhất của con
người – quyền bất khả xâm phạm chỗ ở đã được Hiến pháp qui định tại Điều 73
Hiến pháp 1992 (Công dân có quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở. Không ai được tự ý
vào chỗ ở của người khác nếu người đó không đồng ý, trừ trường hợp được pháp
luật cho phép).
Anh em Đoàn Văn Vươn không có động cơ
giết người, điều này là rất rõ ràng, vì căn cứ vào hoàn cảnh thực tế và diễn
tiến sự việc, họ chỉ có một động cơ duy nhất là bảo vệ lợi ích hợp pháp của
mình. Họ không hề có mối thâm thù gì trước đó với những chiến sĩ công an hay bộ
đội tham gia cưỡng chế do vậy không thể khẳng định là họ có động cơ giết người.
Gia đình Đoàn
Văn Vươn đã tiến hành các thủ tục theo đúng qui định pháp luật, gia đình anh đã
khởi kiện lên Tòa án huyện, khởi kiện tiếp lên Tòa án tỉnh thì không được giải
quyết, điều này cho thấy anh đã bị đẩy đến bước đường cùng, bị đẩy vào
thế đối nghịch với chính quyền, không còn cách nào
khác, tất cả các biện pháp có tính chất ôn hòa, đúng luật anh đã sử dụng nhưng đều
không hiệu quả nên buộc họ phải chống trả để tự vệ.
Về trạng thái
tâm lý thời điểm đó gia đình anh Đoàn Văn Vươn không thể có điều kiện để
bình tĩnh lựa chọn được chính xác phương pháp, phương tiện chống trả thích hợp,
nhất là khi họ bị tấn công bất ngờ và với một lực lượng cưỡng chế đông như vậy.
Việc chống trả của anh em Đoàn Văn Vươn
gây ra cho lực lượng cưỡng chế là tương
xứng. Tương xứng ở đây không có nghĩa là phải ngang bằng hoặc nhỏ hơn thiệt
hại do người xâm hại đe dọa gây ra hoặc đã gây ra (điều này chỉ thị số 07/TATC
ngày 22/12/1983 của Toà án nhân dân tối cao, Nghị quyết số 02/HĐTP-TANDTC/QĐ
ngày 05/01/1986 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã nêu rõ). Súng hoa cải thực tế mức độ sát thương không lớn, việc dùng
súng hoa cải tấn công chỉ là hành động có tính chất cảnh cáo đối với hành vi
trái pháp luật của lực lượng cưỡng chế, hành vi đó không thể gây chết người và
thực tế đã không dẫn đến chết người.
Tóm lại, với nguyên lý nhà nước sinh ra
là để phục vụ, bảo vệ tối đa quyền tự do cá nhân, phù hợp với xu hướng hội nhập,
nhân đạo của pháp luật hình sự thế giới nói chung, theo tôi hành vi của anh em Đoàn Văn Vươn cần phải được coi là phòng vệ chính đáng và không phạm tội.
Khẳng định như vậy mới thực sự phù hợp với các tình tiết khách quan của vụ án, phù
hợp với các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành, đảm bảo đúng chính sách
là xử lý đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không bỏ lọt tội phạm và tránh
làm oan người vô tội và đúng với mong mỏi của nhân dân cả nước.
Bài viết cùng tác giả:
- Vì sao cần phải có tự do ngôn luận
- Khi Hiến pháp là công cụ bảo vệ dân quyền
- Vụ án hiến pháp nổi tiếng về biểu tình ở Đức năm 1986
- Trường phái pháp luật lịch sử ở Đức
- Trao đổi về bài viết: "Tội giết người không có người chết?"
- Hiến pháp 1946: Thể hiện cơ chế phân công và kiểm soát quyền lực nhà nước
- Cấm chơi golf ngày nghỉ và những nhầm lẫn về pháp luật
- Tiếp cận pháp luật từ góc nhìn văn hóa
- Phân định ranh giới giữa luật công và luật tư ở Đức: Lịch sử, tranh luận và gợi mở
- Lập hiến hướng đến pháp quyền ở Việt Nam