Thứ Hai, 3 tháng 10, 2011

VỤ ÁN HIẾN PHÁP NỔI TIẾNG VỀ BIỂU TÌNH Ở ĐỨC NĂM 1986

Ảnh 1: Năng lượng mặt trời thay vì chất phóng xạ (Nguồn ảnh: tại đây)
Nguyễn Minh Tuấn
 
Phần 1. Tóm tắt nội dung vụ án

Vào một ngày đẹp trời, một người có quốc tịch Đức tên là M đã thông báo với cơ quan có thẩm quyền theo luật định sẽ cùng một số người khác tổ chức một cuộc biểu tình ôn hòa chống lại việc xây dựng nhà máy điện hạt nhân ở Wackersdorf. Mục đích của đoàn biểu tình là: "mong muốn những người xây dựng nhà máy và người dân thấy được sự nguy hiểm, tác hại của nhà máy điện hạt nhân." Tiêu ngữ của đoàn biểu tình này là: "Năng lượng mặt trời thay vì chất phóng xạ" (Sonne statt Plutonium) (Xem ảnh 1).

Vào ngày 23/6/1986, khoảng 6h sáng, một nhóm khoảng 30 người đã tiến hành biểu tình dưới hình thức ngồi xếp hàng dài (Sitzblockade) ở nhà máy tại Wackersdorf. Từ 6h30 đến 8h30, một vài người trong số đó có M xếp hàng trước cả lối ra vào nhà máy nhằm không cho những người công nhân đi xe tải vào khu đất xây dựng nhà máy. (Xem ảnh 2)

Thứ Hai, 26 tháng 9, 2011

TÌNH HUỐNG PHÁP LÝ CÓ LỊCH SỬ HƠN MỘT THẾ KỶ Ở ĐỨC


Nguyễn Minh Tuấn

Tình huống pháp luật dưới đây đã có lịch sử hơn một thế kỷ ở Đức. Vào khoảng năm 1905, tức là 5 năm sau khi Bộ dân luật của Đức (1900) có hiệu lực, người ta bắt đầu tranh luận tình huống này. Trong lịch sử pháp luật ở Đức, đây được coi là một trong những tình huống pháp lý gây tranh luận nhiều nhất.
Tình huống đó như sau: 
Trong môt nhà hàng ở Hamburg của người chủ R, một người đàn ông tên là H đã mời người đồng nghiệp tên là B một món trai luộc (Austern). Trong khi thưởng thức món ăn, B phát hiện ra trong một con trai có viên ngọc trai (Perle) mà giá trị của viên ngọc trai này là một số tiền rất lớn thời điểm đó. Câu hỏi đặt ra: Ai là người sở hữu viên ngọc trai này? (Nguồn: Ch. Fahl, Sieben unterhaltsame Lektionen, 1. Aufl., 2010, S. 43f.)

Thứ Sáu, 23 tháng 9, 2011

TINH THẦN HIẾN PHÁP Ở ĐỨC

 

Nguyễn Minh Tuấn


Bức ảnh mà quí vị xem ở trên là bức ảnh miêu tả quang cảnh những buổi trao đổi, thảo luận về Hiến pháp tại  "nhà thờ thánh Paul" (Paulskirche/ St. Paul's Church) ở Frankfurt. Nhà thờ này được xem như là nơi khởi nguồn, là biểu tượng cho Tinh thần Hiến pháp ở Đức.  

Tại đây, ngày 28 tháng 3 năm 1849, bản Hiến pháp dân chủ đầu tiên của nước Đức đã được thông qua bởi một Quốc hội lập hiến mà thành viên là những nhà trí thức hàng đầu thời đó. Họ đã trao đổi rất kĩ lưỡng và kiến thiết ra một bản Hiến pháp dân chủ không thua kém bất cứ một bản Hiến pháp thành văn nào trên thế giới thời điểm đó. Có được thành quả ấy cũng bởi khi xây dựng Hiến pháp này, các nhà lập hiến đã ý thức được rằng Hiến pháp trước hết phải chứa đựng những giá trị pháp quyền, Hiến pháp sinh ra là để ghi nhận, bảo vệ quyền con người và chống lại sự lạm quyền của nhà nước.  (Xem: Edel/Thielmann, Rechtsgeschichte, 3. Aufl., 2003, Rn.526f.)

Đọc Hiến pháp này, người ta không khỏi ngạc nhiên và trân trọng những giá trị của nó, vì gần như tất cả các quyền tự do dân chủ mà hiện nay người Đức đang được hưởng đều đã được qui định một cách đầy đủ, chi tiết ở Chương VI của Hiến pháp như: quyền tự do ngôn luận (Điều 143), quyền tự do biểu tình (Điều 161), quyền tự do lập hội (Điều 162), quyền tự do tôn giáo (Điều 147), quyền tự do lựa chọn nghề nghiệp (Điều 158), quyền tự do khoa học (Điều 152), quyền sở hữu tài sản, quyền tự do cư trú, quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở (Điều 133), quyền bất khả xâm phạm về thư tín, quyền bình đẳng (Điều 137), các quyền tố tụng, liên quan đến việc bắt giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử (Điều 175), bãi bỏ hình phạt tử hình (Điều 139)... 

Thứ Năm, 22 tháng 9, 2011

THUẾ THU NHẬP CỦA NGƯỜI LAO ĐỘNG Ở ĐỨC

Nguyễn Minh Tuấn
Nguồn:
Tạp chí Tia sáng, 

đăng ngày 21/9/2011 tại đây. (Quí vị quan tâm có thể tham khảo bài viết đầy đủ tại đây)


Ở Đức cũng như nhiều nước khác hiện nay, người lao động phải nộp thuế khá cao. Trung bình một người đi làm phải đóng các loại thuế và bảo hiểm từ 40 đến 60% thu nhập, tùy từng loại công việc. Việc người lao động phải đóng thuế, đóng bảo hiểm cao như vậy sẽ dẫn đến những hệ quả tích cực đối với hệ thống phúc lợi xã hội.

Dưới đây là bảng kê thu nhập của một người lao động ở Đức (số liệu hiện tại năm 2011) thu nhập trước thuế là 5.000 Euro. Ví dụ, với cấp độ thuế số 2 (Steuerklasse 2), cấp độ trung bình trong tổng số 6 cấp độ, nếu thu nhập trước thuế là 5.000 Euro, người lao động cuối cùng chỉ được nhận 2.819,84 Euro do phải đóng các loại thuế, bảo hiểm.(2) 

Thứ Sáu, 16 tháng 9, 2011

HỌC Ở HIẾN PHÁP NĂM 1946

 
Muốn xây dựng một nhà nước pháp quyền trước hết phải có một bản Hiến pháp dân chủ. Bản Hiến pháp dân chủ là bản Hiến pháp phải do toàn dân hoặc Quốc hội lập hiến thông qua và phải được đặt ở vị trí cao hơn nhà nước. Nói một cách khác muốn tránh lạm quyền thì quyền lực nhà nước phải bị giới hạn bởi chính bản Hiến pháp dân chủ đó. Trong lịch sử chúng ta đã từng có một bản Hiến pháp được xây dựng trên tinh thần dân chủ như thế đó là Hiến pháp năm 1946.
Ý kiến của tác giả Nguyễn Sĩ Dũng trong bài viết dưới đây một lần nữa khẳng định cần phải "học ở Hiến pháp 1946", học ở những giá trị lập hiến mà chúng ta đã có trong lịch sử từ cách đây hơn 60 năm. Rất nhiều những nhà khoa học khác cũng đã lên tiếng đồng tình với việc cần phải trở lại với những giá trị của Hiến pháp 1946, trở lại với những giá trị đích thực của Hiến pháp. 
Mong rằng quyền phúc quyết Hiến pháp của người dân sẽ được qui định và được hiện thực hóa trong lần sửa đổi Hiến pháp tới đây.  
Đất nước này là đất nước của hơn 90 triệu đồng bào. Vì thế xây dựng một nhà nước của dân thì không thể khác hơn nhân dân phải có quyền được phúc quyết Hiến pháp.
NMT

Thứ Ba, 13 tháng 9, 2011

BẢN DỊCH TUYÊN NGÔN VỀ QUYỀN CỦA BANG VIRGINIA NĂM 1776

(George Mason [1725 - 1792] - đồng tác giả 
Tuyên ngôn về quyền của bang Virginia 1776)
Giới thiệu và dịch sang Tiếng Việt: Nguyễn Minh Tuấn

Virginia Declaration of Rights - Tuyên ngôn về quyền của bang Virginia năm 1776 là văn bản pháp lý quan trọng trong lịch sử pháp luật thế giới. Đây là văn bản pháp lý có tính khởi nguồn về quyền con người, khởi nguồn về phân quyền và là văn bản pháp lý có ảnh hưởng sâu sắc đến các văn bản pháp lý khác sau này như: Tuyên ngôn độc lập của Mỹ, Tuyên ngôn về quyền của Mỹ và Tuyên ngôn về quyền con người và quyền công dân của Pháp cũng như nhiều văn bản pháp lý khác.


Quá trình chuẩn bị cho bản Tuyên ngôn này bắt đầu từ đầu năm 1776, tại thời điểm mà cuộc cách mạng tư sản Mỹ chống thực dân Anh vẫn đang diễn ra và được thông qua vào ngày 12/06/1776. Những người có công lao lớn tham gia soạn thảo bản Tuyên ngôn này là George Mason, Thomas Jefferson and James Madison. Trong đó, người có công đặc biệt là George Mason - người đã soạn thảo các qui định bảo vệ các quyền tự do của con người và xác định rõ mục đích cơ bản của chính quyền.

Thứ Năm, 8 tháng 9, 2011

15 NGHÌN ĐỒNG MỘT NGÀY CÔNG: GIÁO VIÊN SỐNG SAO ĐÂY?

Nguyễn Minh Tuấn
Sự việc ba mươi giáo viên trường mầm non xã Mậu Lâm,huyện Như Thanh, Thanh Hóa đồng loạt xin nghỉ việc với lý do là mức lương quá thấp vừa qua thực sự là một việc đau lòng. Theo bài báo, trung bình một giáo viên mầm non đứng lớp ngày hai buổi ở đây được nhận 15 nghìn đồng, cả tháng trừ tất cả các khoản phải đóng họ được nhận khoảng 500 nghìn đồng. 
 
Thưa quí vị, 500 nghìn đồng một tháng, số tiền ấy chưa bằng một nửa bát phở bò "Kobe" mà một người giàu tiêu chỉ cho một bữa sáng. 

Phàm là con người, không ai có thể uống nước lã, hưởng khí trời mà sống mãi. Tại sao một người lao động làm việc cả ngày cật lực như vậy mà chỉ được nhận 15 nghìn đồng? Thử hỏi với tình trạng lạm phát, đồng tiền mất giá như hiện nay, nếu là quí vị, quí vị sẽ uống gì, ăn gì và sẽ sống như thế nào với số tiền đó? quí vị có đủ tiền cho con ăn học, có đủ kiên nhẫn để tiếp tục say mê với công việc, với lý tưởng của mình không?

Hiện tại mức chênh lệnh giàu nghèo ở Việt Nam đã quá lớn, mà nguyên nhân trực tiếp không gì khác hơn là do tham nhũng, lãng phí và do người giàu phải đóng thuế nhưng đóng thuế thấp hoặc nhiều khoản thu nhập chưa phải đóng thuế. 

Thứ Sáu, 2 tháng 9, 2011

ĐỘC LẬP MÀ DÂN KHÔNG ĐƯỢC HƯỞNG HẠNH PHÚC, TỰ DO THÌ ĐỘC LẬP CŨNG KHÔNG CÓ NGHĨA LÝ GÌ


Nguyễn Minh Tuấn

Sáu mươi sáu năm đã trôi qua kể từ ngày đầu tiên của nền độc lập non trẻ. Giá trị của độc lập là vô giá, không gì có thể so sánh được. Nhưng có một câu hỏi khác, thành quả đích thực mà nền độc lập đem lại cho người dân là gì? Với câu hỏi ấy, chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng trả lời rất thấu đáo và chính xác: "Nếu nước được độc lập mà dân không được hưởng hạnh phúc, tự do thì độc lập cũng không có nghĩa lý gì". (1)
 
Tự do” không phải là giá trị bất biến, tự nó luôn thay đổi theo thời gian và theo bối cảnh xã hội. “Tự do” của sáu mươi sáu năm trước hẳn sẽ khác với những giá trị của tự do ngày hôm nay. Ngày nay, nhân dân chỉ có được tự do đích thực khi nào mà quyền lực của nhà nước bị giới hạn bởi một bản hiến pháp dân chủ được phúc quyết bởi toàn dân, trong đó xác định rõ những quyền cơ bản, cũng như xác định rõ việc người dân có quyền được lựa chọn, quyền thay đổi Quốc hội, Chính phủ thông qua cuộc bầu cử chân chính.(2) Chỉ khi quyền lực nhà nước bị giới hạn, khi ấy những quyền tự do của người dân mới có điều kiện để được bảo vệ và hiện thực hóa.

Thứ Hai, 1 tháng 8, 2011

HÀNG NGÀN ĐIỂM KHÔNG THI ĐẠI HỌC MÔN SỬ: CHUYỆN BÌNH THƯỜNG?

 Nguyễn Minh Tuấn


Trước kết quả thê thảm của môn lịch sử trong kì thi đại học vừa qua, trả lời báo Tuổi trẻ ngày 30/7, người đứng đầu Bộ giáo dục đã cho rằng: "Theo tôi, trong một kỳ thi như kỳ thi đại học vừa qua, có hàng ngàn điểm 0 là bình thường. Đây là kỳ thi cấp quốc gia, là thi tuyển, với mục đích phân loại để làm rõ đâu là người giỏi, người khá, đâu là người yếu kém. Vì vậy, qua quá trình thi lộ ra những học sinh kém là bình thường."


Tôi thực sự không hiểu ngài Bộ trưởng nói "bình thường" là theo nghĩa nào. Đúng là kì thi nào cũng cần phải mang tính phân loại, tìm ra người giỏi, người khá, người yếu kém. Nhưng vấn đề là số lượng, là tỉ lệ bài thi yếu kém đó là bao nhiêu trong tổng thể những người dự thi? Nếu tỉ lệ bài thi yếu kém quá nhiều, hàng nghìn thí sinh không làm được một chút nào, sau khi đã có một thời gian dài ôn luyện, đó chắc chắn phải được xem là việc rất bất bình thường và phải nghiêm túc xem xét lại từ cách dạy, cách học và cách đánh giá. Đơn giản hơn là giáo viên, nếu môn học giáo viên đó dạy mà có quá nhiều điểm 0, điểm yếu kém, thì việc đầu tiên người giáo viên cần làm là phải tự xem lại mình, mà có biện pháp khắc phục, sửa chữa. Huống chi đây lại là người đứng đầu ngành giáo dục của cả một nước, kết quả thi thấp như thế, một thực trạng đáng báo động như thế, vậy mà ngài Bộ trưởng lại thản nhiên cho rằng đó là việc BÌNH THƯỜNG.

Thứ Sáu, 22 tháng 7, 2011

NỤ CƯỜI CỦA BÀ THỊ TRƯỞNG



Nguyễn Minh Tuấn
 
Người phụ nữ với nụ cười tươi rạng rỡ trong ảnh là thị trưởng của thành phố Saarbrücken, thành phố có trường Đại học nơi tôi đang theo học. 

Hàng ngày người phụ nữ ấy vẫn đi về trên một chiếc xe đạp không mới và cũng chưa bao giờ thấy xung quanh có người bảo vệ. 

Không cần phải cưỡi "trên mấy ngàn con trâu" như ngài thị trưởng ở một nước nghèo nọ mà sao tôi thấy người phụ nữ ấy vẫn rất đẹp, vẫn rất sang trọng? Không cần có bất cứ người bảo vệ nào mà sao người phụ nữ ấy vẫn cười tươi, ung dung đạp xe trong một chiều nắng đẹp? Trước đủ loại công việc, sao người phụ nữ ấy vẫn có thể hoàn thành tốt, để rồi thanh thản đạp xe rời nhiệm sở trước 4 giờ chiều về với tổ ấm thân yêu?

Thành phố nơi tôi đang sống có một bà thị trưởng như thế. Thành phố ấy tuy không có những danh hiệu mĩ miều, nhưng sao tôi thấy nó vẫn thật đẹp, thật an toàn và đặc biệt luôn để lại cho tôi những ấn tượng thật sâu sắc về những con người mà tôi đã từng gặp. 

Thứ Sáu, 20 tháng 5, 2011

TỰ DO NGÔN LUẬN Ở CỘNG HÒA LIÊN BANG ĐỨC


Nguyễn Minh Tuấn
Ở Đức, cơ sở Hiến định của quyền tự do ngôn luận là Điều 5 Khoản 1 Câu 1 Đoạn 1 Luật cơ bản. Điều khoản này thừa nhận: „Bất cứ ai cũng có quyền tự do thể hiện và biểu đạt ý kiến của mình dưới dạng lời nói, chữ viết và hình ảnh (…) Không được phép tồn tại bất cứ một sự kiểm duyệt nào.“[1] 

Tòa án Hiến pháp liên bang Đức đã giải thích: „Một ý kiến (Meinung) được hiểu là sự đánh giá có tính định tính (Werturteil), chứa đựng các yếu tố quan điểm, góc nhìn của cá nhân về một vấn đề cụ thể nào đó trong phạm vi tranh luận về mặt tinh thần (im Rahmen einer geistigen Auseinandersetzung). Đã là quan điểm cá nhân thì không phụ thuộc vào việc quan điểm đó là đúng hay sai, quan điểm đó có giá trị hay không có giá trị, cũng như không phụ thuộc vào mức độ xúc cảm ra sao“.[2]

VÌ SAO CẦN PHẢI CÓ TỰ DO NGÔN LUẬN?

(Bạn đã nhìn thấy gì trong bức ảnh này? Nguồn ảnh: tại đây)
Bạn hãy dành khoảng 1 phút và nhìn vào bức hình trên. 

Bạn đã thấy gì trong đó?

Có người sẽ nói rằng đó là một phụ nữ trẻ tuổi, có người phản đối nói rằng không, đó là một bà cụ. 


Qua tranh luận, người ta mới phát hiện ra rằng thực chất đây là hình vẽ có tính mô phỏng, nhìn kĩ bạn sẽ thấy "cằm của người phụ nữ trẻ tuổi trong một góc nhìn khác đồng thời là mũi của một bà cụ". 

Nữ văn sĩ người Pháp Anais Nin đã nói rằng: “chúng ta không nhìn mọi vật như chúng vốn có, chúng ta thường nhìn mọi vật theo cách chúng ta là ai” ("We don't see things as they are, we see things as we are"). 

Cùng là một con bò. Một cậu bé sinh ra ở quê, quen với đồng ruộng nghĩ ngay đến "sức kéo". Một cậu bé sinh ra ở thành phố hay được bố cho đi ăn nhà hàng sẽ nghĩ ngay rằng: "À, con bò này mà làm món bò bít tết thì ngon tuyệt". Một cậu bé sinh ra trong gia đình làm kinh doanh sẽ nghĩ rằng: "Con bò này ít cũng phải hai chục triệu". 

Thứ Ba, 10 tháng 5, 2011

NGƯỜI HỌC ĐÃ THỰC SỰ Ở VỊ TRÍ TRUNG TÂM KHI ĐÀO TẠO TÍN CHỈ?

 

Nguyễn Minh Tuấn

Đào tạo theo tín chỉ đã được áp dụng từ rất lâu ở nhiều nước tiên tiến trên thế giới. Vài năm trở lại đây, nhiều trường Đại học ở Việt Nam đã bước đầu áp dụng mô hình này. 
Hướng đi thì đúng, nhưng liệu cách làm đã đúng?
Qua quan sát và cảm nhận, tôi thấy nếu như đào tạo tín chỉ ở nước ngoài (cụ thể ở Đức trong bài viết tôi đã trình bày tại đây) thực chất là
kết quả của một sự hối thúc liên tục "từ dưới lên" tức là từ phía người học buộc nhà trường, buộc người thầy phải thay đổi, đáp ứng nhu cầu của họ, thì dường như ở Việt Nam lại đang làm ngược lại là áp đặt "từ trên xuống"

Thứ Ba, 3 tháng 5, 2011

BÀI PHỎNG VẤN GS. ALAN D.J.MACFARLANE VỀ HỆ THỐNG PHÁP LUẬT ANH



Alan Donald James Macfarlane là giáo sư của Đại học Cambridge, tiến sĩ chuyên ngành sử học hiện đại - modern history (năm 1967), tiến sĩ chuyên ngành nhân loại học - anthropology (năm 1972). GS. Macfarlane không phải là một nhà luật học, nhưng ông lại có nhiều bài viết, bài phỏng vấn, công trình nghiên cứu liên quan đến lịch sử luật pháp rất có giá trị. Dưới đây là một bài phỏng vấn GS. Macfarlane, tuy ngắn nhưng đã giới thiệu được những nét cơ bản nhất về lịch sử và những đặc trưng điển hình của hệ thống pháp luật Anh (Tiếng Anh).
Nguồn tham khảo (Source): 
http://www.alanmacfarlane.com/FILES/alanlongcv.html
http://www.alanmacfarlane.com/
http://www.alanmacfarlane.com/law/audiovisual.html

Xin trân trọng giới thiệu!

Thứ Bảy, 30 tháng 4, 2011

NHÀ NƯỚC ANH – QUÂN CHỦ MÀ DÂN CHỦ

Nguyễn Minh Tuấn
 
Nhiều người hiện nay vẫn hiểu: “Đã quân chủ thì không dân chủ”.
Hiểu như vậy là chưa đúng. Chưa đúng cả trên phương diện lý thuyết, lẫn thực tế.
Trước hết về mặt lý thuyết, khi nói nhà nước quân chủ hay cộng hòa là nói đến phương diện hình thức chính thể (form of government), còn khi đề cập đến dân chủ hay độc tài là đề cập đến phương diện chế độ chính trị (political governance). Về phương diện thực tế, hình thức chính thể là quân chủ hay cộng hòa chưa nói lên được vấn đề nhà nước đó có dân chủ thực sự hay không.
Nước Anh là một ví dụ điển hình về nhà nước quân chủ mà dân chủ. Muốn lý giải được tại sao nhà nước này lại có hình thức chính thể quân chủ lập hiến (constitutional monarchy), lý giải tại sao có chính thể quân chủ lập hiến nhưng vẫn là một nhà nước dân chủ thì cần phải trở lại tìm hiểu lịch sử ra đời và cả thực tế tổ chức, hoạt động của nhà nước này hiện nay.

Thứ Bảy, 23 tháng 4, 2011

AN TOÀN VÀ TRẬT TỰ XÃ HỘI - NHÌN TỪ HỆ THỐNG CÁC BIỂN BÁO Ở ĐỨC


 

Nguyễn Minh Tuấn
Đăng ngày 23/4/2011

Ở nước Đức, khắp nơi từ ngoài đường phố, đến bệnh viện, trường học, công sở hoặc bất cứ nơi vui chơi, giải trí nào, bạn rất dễ dàng tìm thấy các "biển báo". Những biển báo ấy là những chỉ dẫn, nhưng đôi khi lại hàm chứa những cơ sở để ràng buộc trách nhiệm pháp lý. Và không rõ từ bao giờ những biển báo như thế đã trở thành một phần tất yếu trong cuộc sống thường ngày và góp phần tạo nên một xã hội có trật tự ở nơi đây.

Thứ Sáu, 22 tháng 4, 2011

LUẬT PHÁP: CẦN, RẤT CẦN NHƯNG CHƯA ĐỦ

 

Nguyễn Minh Tuấn
Nguồn: Chuyên mục Thư Hà nội, Báo điện tử Vietnamnet
Đăng ngày 2/11/2006
 Sự cần thiết, tối cần thiết của luật pháp là điều hiển nhiên. Nhưng còn những yếu tố hỗ trợ khác nữa cũng không kém phần hữu hiệu trong việc điều chỉnh hành vi con người, cộng đồng và quản lý đất nước.
Quốc hội đang giành phần lớn thời gian để xây dựng và hoàn chỉnh hệ thống luật pháp của Việt Nam. Đó là quá trình tất yếu của một đất nước đang tiến lên văn minh và hiện đại, đang vươn tới một trình độ cao hơn trong lịch sử phát triển của dân tộc. Nhưng sẽ là không đầy đủ, nếu quên đi sự hỗ trợ của những yếu tố khác. Những yếu tố này cũng không kém phần quan trọng.

Thứ Năm, 7 tháng 4, 2011

BA YẾU TỐ TẠO NÊN SỰ THÀNH CÔNG CỦA PHILIPP RÖSLER


Nguyễn Minh Tuấn
Đăng ngày 9/4/2011
Philipp Rösler là một cái tên mà đến nay không còn xa lạ với chính trường nước Đức, cũng như người dân Đức. 
Xuất thân là một cậu bé mồ côi người Việt, Rösler được một cặp vợ chồng người Đức nhận làm con nuôi và đưa sang Đức khi mới 9 tháng tuổi.[1] Từ tháng 10 năm 2009, Rösler được bổ nhiệm làm Bộ trưởng Bộ Y tế Đức. Trong Đại hội Đảng toàn liên bang của Đảng dân chủ tự do FDP dự kiến tổ chức từ ngày 13 đến ngày 15 tháng 5 năm 2011 sắp tới, Rösler sẽ chính thức trở thành người kế nhiệm Westerwelle trong cương vị là Chủ tịch Đảng FDP, đồng thời giữ chức Phó thủ tướng của nước Cộng hòa liên bang Đức.[2]
Năm nay Rösler 38 tuổi, là Bộ trưởng trẻ tuổi nhất trong lịch sử nước Đức và có thể sẽ là Chủ tịch Đảng FDP trẻ tuổi nhất trong lịch sử của Đảng này vào tháng 5 tới đây.  
Điều gì tạo nên thành công của Rösler hôm nay? 
Tôi cho rằng, thành công của Rösler là sự tổng hợp đầy đủ của ba yếu tố sau đây:

Thứ Hai, 7 tháng 3, 2011

HABEAS CORPUS ACT (1679)

Nguyễn Minh Tuấn

Đạo luật Habeas Corpus do Nghị viện Anh thông qua năm 1679 (dưới thời trị vì của nhà vua Charles II) được coi là đạo luật quan trọng trong lịch sử của Anh, cũng như lịch sử pháp luật thế giới qui định các biện pháp nhằm ngăn chặn việc bắt, giam người trái pháp luật.
Đến nay "Habeas corpus" trở thành một thuật ngữ phổ biến và trở thành một  trong những công cụ pháp lý quan trọng nhất bảo vệ quyền tự do của cá nhân chống lại sự xâm phạm của nhà nước ở nhiều quốc gia trên thế giới. Ví dụ: Luật cơ bản của Cộng hòa Liên bang Đức hiện hành tại Điều 2 Khoản 2 Câu 2 LCBĐiều 104 Khoản 2 và 3 LCB; Hiến pháp Hợp chủng quốc Hoa Kỳ tại Điều 1, Section 9, Câu 2: "The privilege of the writ of habeas corpus shall not be suspended, unless when in cases of rebellion or invasion, the public safety may require it."; Hiến pháp Canada năm 1982, tại Điều 10: "Everyone has the right on arrest or detention... (c) to have the validity of the detention determined by way of habeas corpus and to be released if the detention is not lawful."... 
Dưới đây xin giới thiệu với bạn đọc bản dịch Tiếng Anh đạo Luật này từ  trang web Wikisource: http://en.wikisource.org/wiki/Habeas_Corpus_Act, truy cập gần nhất ngày 6 tháng 3 năm 2011.

Chủ Nhật, 6 tháng 3, 2011

MAGNA CHARTA

Sưu tầm và giới thiệu: Nguyễn Minh Tuấn
Magna Charta (Tiếng Latinh: Magna Carta) là bản đại hiến chương của Anh quốc, được ban hành năm 1215. Nội dung của bản hiến chương này là hạn chế quyền lực của nhà vua, đồng thời thừa nhận một số quyền tự do của con người. 
Xung quanh vấn đề ý nghĩa và giá trị của Magna Charta hiện nay cũng có nhiều quan điểm trái ngược nhau. Có tác giả cho rằng đây là văn bản pháp lý vĩ đại, là bản hiến pháp thành văn đầu tiên của nhân loại (Ví dụ: quan điểm của nhóm tác giả Danny Danziger & John Gillingham, trong cuốn sách "Năm 1215 năm của Magna Carta - 1215: The Year of Magna Carta", xuất bản năm 2004, từ trang 278f. hoặc quan điểm của các tác giả Maurice Percy Ashley u. a., Neville Williams, Christopher Hibber viết phần từ Magna Charta đến Cách mạng Pháp (Von der Magna Charta zur Französischen Revolution) in trong Tập 2 của Bộ sách gồm 3 tập: Những mốc phát triển chính của lịch sử (Meilensteine der Geschichte) xuất bản năm 1971). Nhưng cũng có ý kiến cho rằng thực ra Magna Charta chỉ là bản sao từ bản Hiến chương tự do của vua Henry I trước đó năm 1100 và thực tế Magna Charta ở thời trung cổ cũng không có ý nghĩa đáng kể, ngoại trừ vai trò là biểu tượng cho những khát vọng "quyền lực của nhà vua phải bị giới hạn bởi Luật" trong thời kỳ nội chiến ở Anh. (Chẳng hạn như quan điểm của Clanchy, M.T, trong cuốn sách: Clanchy, M.T, Early Medieval England Folio Society, 1997, p139). Có nhiều tác giả còn bổ sung thêm rằng Magna Charta dù quan trọng nhưng không thể được coi là Hiến pháp thành văn đầu tiên của nhân loại được, đó chỉ đơn thuần là một trong hàng loạt các đạo luật  khởi đầu ở Anh đề cập đến việc bảo vệ quyền con người như Habeas Corpus (Luật cấm bắt giam người trái pháp luật, được Nghị viên Anh thông qua năm 1679 dưới thời vua Charles II),  Petition of Right (Luật khiếu nại về quyền, được Nghị viện Anh thông qua năm 1628 qui định một người chỉ có thể bị tống giam khi có phán quyết của Tòa án hoặc lệnh bắt giữ của cơ quan hành chính [writ]), English Bill of Rights (Luật về quyền của Anh quốc được Nghị viên  Anh thông qua năm 1689 qui định về quyền bầu cử  Nghị viện và quyền tự do ngôn luận trong hoạt động của Nghị viên) và Act of Settlement (Luật về thiết lập trật tự, được Nghị viện thông qua năm 1701 bãi bỏ chế độ cha truyền con nối của nhà vua [Removal from the succession] ở Anh) (Xem thêm bài phát biểu của Lord Woolf, Thẩm phán Tòa án Tối cao của Anh và xứ Wales: Judiciary of England and Wales, Speeches, tại địa chỉ website:http://www.judiciary.gov.uk/media/speeches/2005/magna-carta-precedent-recent-constitutional-change đăng ngày 15/7/2005, truy cập gần nhất ngày 6/3/2011).  
Dưới đây là bản dịch Tiếng Anh Magna Charta 1215 (những thuật ngữ cổ được chú giải) của dự án nghiên cứu lịch sử pháp luật thế giới Avalon thuộc Đại học Yale tại địa chỉ: http://avalon.law.yale.edu/medieval/magframe.asp, đăng năm 1996, truy cập gần nhất ngày 6/3/2011. 

LUẬT SA - LICH (SALIC LAW)

Sưu tầm và giới thiệu: Nguyễn Minh Tuấn

Luật Sa - lích (Tiếng Anh: Salic law, Tiếng La tinh: Lex Salica) là Bộ luật được pháp điển hóa dưới thời đế quốc Frank giai đoạn đầu thời kỳ trung cổ, dưới thời cai trị của nhà vua Clovis I (thế kỷ thứ VI). Ngoại trừ một vài thông tin người ta tìm thấy trên một vài ngôi mộ (đặc biệt của Childerich, cha của Clovis tìm thấy ở Tournay năm 1663) thì Đạo luật này gần như là tư liệu duy nhất, điều đó càng khiến cho đạo luật có giá trị lịch sử đặc biệt. Qua những qui định của Bộ luật này người ta thấy được đầy đủ các qui định luật pháp về hệ thống quản lý đất đai, bản chất của cộng đồng làng (the nature of the early village community), quan hệ của người Giéc manh và người La Mã (the relations of the Germans to the Romans), vị trí của nhà vua (the position of the king), các tầng lớp trong xã hội (the classes of the population), đời sống gia đình (family life), tài sản (property), thủ tục tố tụng (judicial procedure), các quan điểm đạo đức (the ethical views). Tất cả đều được thể hiện trong các điều luật của Luật Sa lích. 
Cuốn sách: "Sưu tầm các tư liệu lịch sử thời trung cổ" xuất bản tại Anh năm 1896  của Henderson, Ernest F. (Henderson, Ernest F. Select Historical Documents of the Middle Ages, London, 1896), được giới thiệu lại trên trang web dự án lịch sử pháp luật thế giới tại trang web http://avalon.law.yale.edu/medieval/salic.asp là một nguồn tư liệu quí để nghiên cứu và lý giải nhiều vấn đề về lịch sử pháp luật giai đoạn này. Xin trân trọng giới thiệu!

LUẬT HAMMURABI

Nguyễn Minh Tuấn
Bộ luật Hammurabi là một trong những Bộ luật cổ xưa nhất của nhân loại. Nội dung, giá trị và ý nghĩa của Bộ luật này tôi đã giới thiệu ở bài viết Bộ luật Hammurabi - Một trong những Bộ luật cổ xưa nhất của nhân loại. Tư liệu để nghiên cứu sâu hơn về Bộ luật này, các bạn sinh viên có thể tìm hiểu những tư liệu dưới đây:
1). Giới thiệu về Bộ luật của Charles F. Horne;
2). Bản dịch Bộ luật của L.W.King (Tiếng Anh);
3). Bài phân tích của Claude Hermann Walter Johns;
By the Rev. Claude Hermann Walter Johns, M.A. Litt.D. from the Eleventh Edition of the Encyclopedia Britannica, 1910-1911.
Nguồn:  http://avalon.law.yale.edu/ancient/hammpre.asp 

Thứ Tư, 29 tháng 12, 2010

TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT CƠ BẢN GIỮA NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT PHƯƠNG ĐÔNG, PHƯƠNG TÂY CỔ ĐẠI



Nguyễn Minh Tuấn

Một nội dung quan trọng của Lịch sử nhà nước và pháp luật thế giới là vấn đề Lịch sử nhà nước và pháp luật Phương Đông và Phương Tây thời cổ đại. Đây là một giai đoạn hình thành những nhà nước, những sản phẩm pháp điển hóa đầu tiên, mà hình thức cũng như nội dung của chúng ảnh hưởng lớn đến thời trung đại và cận, hiện đại sau này trong một chiều dài lịch sử phát triển. Vấn đề quan trọng là sau khi nghiên cứu từng nhà nước điển hình ở hai khu vực này, sinh viên phải chỉ ra được những đặc điểm cơ bản, những điểm giống và khác, cũng như cơ sở tạo nên sự tương đồng và khác biệt ấy dưới góc nhìn của nhà luật học. Phần tổng hợp dưới đây chỉ dừng lại ở mức nêu vấn đề để những bạn sinh viên quan tâm khi có điều kiện tiếp tục cùng tìm hiểu, nghiên cứu chứ không làm thay những gì các bạn phải làm. Chớ vội "copy + paste" các nội dung này rồi nhân bản thành các bài tiểu luận hoặc bài kiểm tra na ná giống nhau, điều này là vô ích vì những vấn đề chính cần phải giải thích làm rõ, tác giả về cơ bản đã không/ chưa giải đáp mà nêu thành câu hỏi, để trong dấu ngoặc vuông, chữ màu xanh. Hi vọng những câu hỏi này phần nào sẽ kích thích các bạn sinh viên tư duy,  thậm chí phản biện lại và rút ra những cơ sở lý luận cũng như những bài học kinh nghiệm cho hiện tại.

Chủ Nhật, 19 tháng 12, 2010

PHÂN QUYỀN Ở CỘNG HÒA LIÊN BANG ĐỨC


Nguyễn Minh Tuấn

Sau mỗi buổi nghe giảng những bài giảng của GS trực tiếp hướng dẫn, tôi hay dành thời gian cuối buổi ở lại để được hỏi và trao đổi với GS về những vấn đề mình quan tâm hoặc còn băn khoăn, thắc mắc.

Bài giảng mà GS lần này trình bày là về vấn đề cũ, nhưng lại luôn mới vì tính thời sự của nó "Vấn đề áp dụng học thuyết phân quyền ở nhà nước CHLB Đức". Sau khi nghe giảng, tôi đã đặt ra hai câu hỏi như sau:

Câu hỏi 1. "Tôi thấy giữa nguyên tắc phân quyền (Gewaltenteilung) và đặc trưng của chính thể đại nghị (parlamentarisches Regierungssystem) ở Đức có một sự mâu thuẫn. Cụ thể như GS vừa trình bày, phân quyền là phân công về chức năng giữa lập pháp, hành pháp và tư pháp. Tuy nhiên  trong chính thể đại nghị ở Đức, hoạt động lập pháp không chỉ là việc của Nghị viện, trên thực tế, Chính phủ có tác động rất lớn vào hoạt động lập pháp. Bằng chứng là Chính phủ có quyền trình dự án luật (Gesetzinitiativrecht theo điều 76, khoản 1 Luật cơ bản [viết tắt: LCB]) và quyền ban hành văn bản pháp quy hướng dẫn (Rechtsverordnungen theo Điều 80 LCB). Thủ tướng do Hạ viện bầu ra  (Điều 63 LCB) và trong suốt nhiệm kỳ phải đạt được tín nhiệm của đa số các thành viên Hạ viện (Điều 67, 68 LCB). Quan hệ ràng buộc, tác động thường xuyên qua lại như vậy thì đâu còn là phân quyền. Tôi hiểu như vậy có đúng không và GS nghĩ sao về vấn đề này?"

Câu hỏi 2. "GS có nói không có phân chia quyền lực thì không có tự do, không có hiến pháp và cũng không có nhà nước pháp quyền. Tôi rất quan tâm về vấn đề này, GS có thể chia sẻ rõ hơn được không?" 

Thứ Năm, 25 tháng 11, 2010

LUẬT 12 BẢNG

Giới thiệu và dịch sang Tiếng Việt: Nguyễn Minh Tuấn

Luật 12 bảng (Lex duodecim tabularum) ra đời ở thời kỳ đầu của nền cộng hoà La Mã (hay còn gọi là sơ kỳ của nền cộng hòa). Bộ luật này được khắc trên 12 bảng đồng đặt ở quảng trường La Mã, nên Bộ luật này được gọi tắt là "Luật 12 bảng".
Do phong trào đấu tranh của bình dân và chủ nô công thương chống lại sự vận dụng tuỳ tiện tập quán trong tư pháp vì lợi ích riêng, năm 450 TCN, sau một năm làm việc, Uỷ ban biên soạn pháp luật gồm 5 quí tộc và 5 bình dân đã soạn Bộ luật này. Ủy ban đã thống nhất: ”Một đạo luật được ban hành thì phải được áp dụng chung với tất cả mọi người, chứ không phải một cá nhân cụ thể nào”. Đây là tư tưởng tiến bộ về sự bình đẳng pháp luật (aequum ius) từ các tác giả của Luật 12 bảng. (Xem: Stephan Meder, Rechts-geschichte, 2. Auflage, 2005, S. 13; Mathias Smoeckel, Stefan Stolte, Examinatorium Rechts-geschichte, 1. Auflage, 2008, S. 8f.).
Nghiên cứu luật 12 bảng, chúng ta sẽ phần nào hiểu được đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội của người La Mã cổ đại. Hình thức và nội dung của bản pháp điển hóa này có ảnh hưởng từ pháp luật Hy Lạp cổ đại. Trên phương diện pháp lý, vượt ra khỏi tính giai cấp, Luật 12 bảng có nhiều giá trị, đặc biệt nhất là đã tạo dựng được nền tảng dân luật cổ (alten ius civile). Về nội dung, Luật 12 bảng chứa đựng nhiều qui phạm tiến bộ về tố tụng, về luật tư và luật hình sự. 
Bản gốc của Luật 12 bảng này đã bị thất truyền khi thành La Mã bị phá hủy vào năm 390 SCN. Những gì chúng ta có được ngày nay chỉ là những cứ liệu được ghi chép hoặc trích dẫn lại từ những cuốn sách cổ được viết bởi những tác giả La Mã bằng Tiếng La tinh.
Dưới đây xin trân trọng giới thiệu BẢN DỊCH TIẾNG VIỆT LUẬT 12 BẢNG đến bạn đọc, đặc biệt là các bạn sinh viên Luật.
Bản dịch Luật 12 bảng dưới đây chỉ mang tính chất tham khảo. Do sự bất định và đa nghĩa của ngôn ngữ, cùng với nhiều từ cổ trong Luật, nên mặc dù đã cố gắng, đã trao đổi với cả những đồng nghiệp am hiểu về Tiếng La tinh, nhưng chắc chắn bản dịch dưới đây chưa thể hoàn thiện và không tránh khỏi những sai sót. Bản dịch này và các bản dịch Luật cổ khác sẽ dần được  giới thiệu, chỉnh sửa và hoàn thiện theo thời gian. Tác giả bản dịch rất mong nhận được các ý kiến đóng góp thiện chí. Tương ứng với mỗi qui phạm, tác giả đều trích dẫn kèm theo nguồn gốc bằng cả Tiếng La tinh, Tiếng Anh và Tiếng Đức để bạn đọc tiện đối chiếu khi có điều kiện. Qua đây, chính từ những nội dung của Luật 12 Bảng cũng đặt ra nhiều vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu làm rõ như: Kỹ thuật lập pháp thể hiện trong Luật 12 bảng và Luật La Mã thời cổ đại; nghiên cứu có tính liên ngành tìm hiểu về thực tiễn áp dụng pháp luật thời La Mã cổ đại; Vấn đề cơ sở kế thừa Luật La Mã trong Luật dân sự hiện đại ở các nước Tây Âu qua từng chế định cụ thể [...].
Nguồn:
Bản gốc Tiếng La tinh: Từ Thư viện trực tuyến Bibliotheca Augustana
Các bản dịch:
1.  Tiếng Anh: Warmington, Remains of Old Latin, Vol. III Lucilius, The Twelve Tables, 1967
2. Tiếng Đức: R. Düll, Das Zwölftafelgesetz, Texte, Übersetzungen und Erläuterungen, 7. Auflage, 1995; 

Thứ Sáu, 1 tháng 10, 2010

HÀ NỘI MỘT NGÀN NĂM - NGHĨ VỀ SỰ ĐỒNG THUẬN


Nguyễn Minh Tuấn

Một ngàn năm trước, Lý Thái Tổ rời đô từ Hoa Lư (kinh đô của nước Đại Cồ Việt) về Đại La với mong muốn tính kế muôn đời cho con cháu.
Một ngàn năm trước, nhà Lý đã mở đầu kỷ nguyên văn minh Đại Việt, tạo dựng nền tảng của chính quyền "khoan thư sức dân, làm kế sâu rễ bền gốc" (thời Lý - Trần) tồn tại gần bốn thế kỷ. Vì đâu mà một dân tộc đất không rộng, người không đông lại có thể ba lần dành chiến thắng trước một đội quân thiện chiến tầm cỡ thế giới như quân Nguyên Mông - một đội quân đã chiếm gần hết Châu Âu và vùng Trung Cận Đông, san bằng thành trì nước Tống và đô hộ toàn bộ nước Trung Quốc xưa? Sau này, Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn đã tổng kết, lý giải rằng ta thắng được giặc, giữ vững được bờ cõi là bởi lòng dân - “do trên dưới đồng lòng, anh em hòa thuận, cả nước cùng góp sức”.

Thứ Sáu, 9 tháng 7, 2010

100% TIẾN SĨ VÀ SĨ DIỆN CỦA NGƯỜI LÀM TIẾN SĨ Ở MỸ KHÔNG BIẾT TIẾNG ANH

Nguyễn Minh Tuấn

Dư luận chưa hết phản cảm, bức xúc về việc Hà Nội đặt chỉ tiêu 100% cán bộ cấp thành ủy quản lý đến năm 2020 phải có bằng Tiến sĩ, thì gần đây lại phát hiện ra việc một cán bộ có tên là Nguyễn Ngọc Ân lấy được bằng Tiến sĩ ở Mỹ mà không cần biết tiếng Anh. Từ một cử nhân tốt nghiệp tại chức kinh tế- quốc dân đặt tại Phú Thọ, vị này đã bỏ ra số tiền 17.000 USD để có được bằng Tiến sĩ. Trong thời gian làm TS (từ tháng 2-2007 đến tháng 9-2009), ông sang trường ĐH này học chỉ có hai đợt, mỗi đợt một tuần để nghe giảng tiếng Anh (nhưng có người phiên dịch sang tiếng Việt). Khi bảo vệ luận án, cũng có người phiên dịch cho ông từ đầu đến cuối. Ông đã cho biết rằng Trường Đại học Nam Thái Bình Dương không đặt điều kiện những nghiên cứu sinh như ông phải biết tiếng Anh, không phải thi đầu vào, mà chỉ cần gửi đề cương sang để nhà trường chỉnh sửa.

Từ thực tế trên, có hai câu hỏi cần đặt ra để bàn luận: I) Khi giá trị của bằng cấp bị hiểu sai sẽ dẫn đến hệ quả, tác hại gì cho xã hội? và II) Tiến sĩ là ai và thực chất học Tiến sĩ để làm gì?

Thứ Năm, 22 tháng 4, 2010

VÀI NÉT VỀ ĐÀO TẠO TÍN CHỈ NGÀNH LUẬT (QUA VÍ DỤ ĐẠI HỌC SAARLAND, CHLB ĐỨC)


Nguyễn Minh Tuấn

Điều 5 khoản 3 câu 1 Luật cơ bản của Đức qui định: “Khoa học, giảng dạy và nghiên cứu là tự do”. Qui định quyền tự do về khoa học (die Wissenschaftsfreiheit) là quyền hiến định, một quyền tự vệ của cá nhân (Abwehrrecht) chống lại sự can thiệp từ phía nhà nước trong lĩnh vực khoa học, đồng thời là cơ sở bảo vệ sự tự chủ của các trường đại học (Hochschulautonomie). Quyền tự do về khoa học được đặt trong hệ thống các quyền tự do khác là các quyền tự do về tư tưởng (Meinungsfreiheit), tự do báo chí (Pressefreiheit) và tự do về nghệ thuật (Freiheit der Kunst) được qui định chung tại Điều 5 của Luật này.
 
Từ qui định cụ thể đến thực tế tổ chức giảng dạy, học tập và qui trình đào tạo đại học theo tín chỉ ở Đức đều phải dựa trên cơ sở của Điều 5 khoản 3 câu 1 Luật cơ bản theo nguyên tắc: TÔN TRỌNG TỰ DO TRONG KHOA HỌC. Bản chất của đào tạo tín chỉ cũng là hoạt động tổ chức nhằm hiện thực hóa quyền tự do trong khoa học của các chủ thể hoạt động khoa học là các giáo sư, người nghiên cứu và học viên.

Thứ Tư, 31 tháng 3, 2010

GIẤC MƠ ĐẠI HỌC ĐẲNG CẤP QUỐC TẾ



Nguyễn Minh Tuấn

Bộ giáo dục và đào tạo Việt nam đặt mục tiêu 10 năm nữa sẽ có trường Đại học lọt vào top 200 các trường hàng đầu thế giới. Quả là một tham vọng lớn. Có tham vọng và phấn đấu hết mình cho những ước mơ để đi đến thành công là điều đáng trân trọng. Tuy nhiên cứ đặt ra tham vọng, nhưng không hiểu mình đang đứng ở đâu, thì tham vọng sẽ chỉ là mơ mộng.

Trong bối cảnh cạnh tranh rất gay gắt giữa các trường đại học trên thế giới hiện nay, việc phấn đấu trở thành trường đại học hàng đầu thế giới là một việc làm hết sức khó khăn. Thử kể ra một vài điều kiện và năng lực thực tế sẽ thấy ngay ta đang đứng ở đâu.

Các trường đại học hiện nay thường cạnh tranh, dựa vào các tiêu chí như:
(1) số lượng giáo sư có đẳng cấp quốc tế, có các thành tích nghiên cứu khoa học tầm quốc tế như giải Nobel và Fields,
(2) số lượng bài báo quốc tế được trích dẫn thường xuyên nhất,
(3) tỷ lệ giáo sư /sinh viên, giáo sư/sinh viên nước ngoài,
(4) chương trình giảng dạy, qui trình tuyển chọn giáo viên, qui trình tuyển chọn sinh viên,
(5) tiêu chuẩn về thư viện, điều kiện cơ sở vật chất, chi phí phục vụ nghiên cứu, phục vụ giảng dạy.

Thứ Bảy, 17 tháng 10, 2009

CHUYỆN TỬ TẾ

Nguyễn Minh Tuấn

Chuyện tử tế là tên bộ phim tài liệu nổi tiếng của đạo diễn, NSND Trần Văn Thủy.

Tác phẩm được sản xuất năm 1985 nhưng bị cấm, cho tới tận khi có sự can thiệp của Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh năm 1987, bộ phim mới được công chiếu rộng rãi.

Sau đó bộ phim đã giành giải Bồ câu bạc tại Liên hoan phim Quốc tế Leipzig, Cộng hòa Dân chủ Đức và được đánh giá là một trong mười bộ phim tài liệu hay nhất thế giới vì đã thể hiện sự dũng cảm tuyệt vời trong việc phản ánh hiện thực xã hội và suy nghĩ của người dân.

Thứ Tư, 14 tháng 10, 2009

HỎNG TỪ TRONG CHẤT LIỆU

 Nguyễn Minh Tuấn
Năm 2006, công tác tại Điện Biên, tôi đã có dịp đến thăm hệ thống di tích lịch sử chiến thắng Điện Biên Phủ như: Sở chỉ huy chiến dịch Điện Biên Phủ - Mường Phăng; Các đồi A1, C1, D1, E1; các cứ điểm Him Lam, Bản Kéo, Độc Lập và khu hầm Đờcát (hay còn gọi là trung tâm tập đoàn cứ điểm của Pháp).
Tôi còn nhớ mãi hôm đó được các anh chị học viên đưa đi thăm công trình rất mới là tượng đài kỷ niệm 50 năm chiến thắng Điện Biên Phủ vừa hoàn thành, đặt tại trung tâm thành phố.
Nghe kể tôi rất háo hức và mừng cho đất nước, mừng cho tỉnh Điện Biên có thêm một công trình xứng đáng với một chiến thắng tầm cỡ thế giới như chiến thắng Điện Biên phủ.

Thứ Hai, 17 tháng 8, 2009

NHỮNG CON SỐ BIẾT NÓI


Nguyễn Minh Tuấn

Những con số dưới đây là những con số đưa ra để chúng ta cùng nhìn lại và suy ngẫm.

I. Những số liệu về Đại biểu Quốc hội Việt nam
1. Cơ cấu, số liệu Đại biểu Quốc hội Việt Nam Khóa XII:

Tổng số ĐBQH Việt Nam Khóa XII là 493 người:
- 31,03% đại biểu Quốc hội ở các cơ quan trung ương;
- 68,97% đại biểu Quốc hội ở địa phương;
- 17,65% đại biểu là người dân tộc thiểu số;
- 25,76% đại biểu là phụ nữ;
- 8,72% đại biểu là người ngoài Đảng;
- 13,79% đại biểu là trẻ tuổi;
- 27,59% đại biểu là đại biểu Quốc hội khóa XI tái cử;
- 95,99% đại biểu Quốc hội trình độ đại học và trên đại học;
- 3,20% đại biểu thuộc khối doanh nghiệp;
- 29,41% đại biểu hoạt động chuyên trách ở các cơ quan của Quốc hội và các Đoàn đại biểu Quốc hội;
- 0,20% đại biểu là người tự ứng cử.
(Nguồn: Trung tâm bồi dưỡng ĐBQH, Ban Công tác đại biểu - Ủy ban thường vụ Quốc hội, có thể truy cập tại website: http://ttbd.gov.vn/Default.aspx?tabid=217)

Thứ Bảy, 8 tháng 8, 2009

BÀI HỌC CANH TÂN ĐẤT NƯỚC Ở NHẬT BẢN

Nguyễn Minh Tuấn

Nói đến Nhật Bản hiện nay, người ta biết đến một nền kinh tế lớn thứ hai toàn cầu tính theo GDP, một trong những nước dẫn đầu về khoa học - công nghệ, thu nhập bình quân đầu người gần 40.000 đô la Mỹ/năm.

Có rất nhiều lý do khác nhau để lý giải về sự phát triển thần kỳ của Nhật Bản, nhưng một trong những lý do rất quan trọng đó là nước Nhật đã có những cuộc cải cách toàn diện ở những thời khắc có tính chất quyết định.


Xuyên suốt trong các cuộc cải cách lớn của Nhật Bản là chính sách coi trọng chất xám, chủ động học tập nước ngoài để xây dựng, phát triển đất nước.

Thứ Hai, 20 tháng 7, 2009

KHI PHÁP LUẬT LÀ HIỆN THÂN CỦA CÔNG LÝ

Nguyễn Minh Tuấn
Nguồn: Tạp chí Tia sáng,

Số tháng 11/2004, tr. 12-13
Nếu chỉ thuần túy coi văn bản quy phạm pháp luật mới là nguồn duy nhất của pháp luật và chính thức ở nước ta hiện nay, thì giữa pháp luật và cuộc sống sẽ mãi mãi là những khoảng cách vô hình và khoảng cách ấy sẽ càng xa mới tiến tới một xã hội dân bản, nếu như những quy phạm pháp luật không mang trong nó hơi thở từ cuộc sống, giá trị của niềm tin ở người dân vào luật pháp, vào cơ quan công quyền.

Thứ Bảy, 4 tháng 7, 2009

LẬP HIẾN HƯỚNG ĐẾN PHÁP QUYỀN Ở VIỆT NAM

Nguyễn Minh Tuấn
Nguồn: Tạp chí Tia sáng, đăng ngày 4/8/2009,
truy cập đường link gốc tại đây

Bản Hiến pháp thành văn đầu tiên trong lịch sử nhân loại và cũng là bản Hiến pháp tồn tại lâu nhất cho đến nay trên thế giới đấy chính là bản Hiến pháp của Mỹ năm 1787. Xã hội luôn vận động và phát triển không ngừng, nhiều vấn đề có thể hôm nay đúng, nhưng ngày mai chưa chắc vẫn còn đúng, vậy đâu là những giá trị trường tồn có khả năng thích ứng với đổi thay của xã hội trong bản Hiến pháp này?


Thứ Ba, 21 tháng 4, 2009

TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẠN CHẾ NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CỦA SINH VIÊN?




Nguyễn Minh Tuấn
Nguồn: Tuần Việt Nam, đăng ngày 18/4/2009,
truy cập đường link gốc tại đây

(TuanVietNam)- Muốn thay đổi tình trạng NCKH trong sinh viên hiện nay phải có sự thay đổi từ cả ba chủ thể: Nhà trường – sinh viên – các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp cần sử dụng các sản phẩm khoa học. Không thể có sản phẩm khoa học chất lượng một khi nhà trường không định hướng, hỗ trợ; sinh viên không thiết tha với NCKH...
Đó có vẻ như là sự vô lý, nhưng tiếc thay lại là sự thật, khi nhìn vào ba điều kiện có ý nghĩa quyết định tới chất lượng của các đề tài nghiên cứu khoa học của sinh viên trong các trường ĐH nước ta hiện nay, nhất là các đề tài mang tính ứng dụng.

Thứ Năm, 12 tháng 2, 2009

HAI HỆ THỐNG PHÁP LUẬT COMMON LAW VÀ CIVIL LAW


Nguyễn Minh Tuấn
(Trích trong Sách: Tập bài giảng Lịch sử nhà nước và pháp luật thế giới, Nhà xuất bản chính trị Quốc gia, Hà nội, năm 2007)

Hệ thống pháp luật Common Law và Civil Law là hai hệ thống pháp luật lớn và điển hình trên thế giới. Hai hệ thống này có những điểm đặc thù, tạo nên những "dòng họ" pháp luật, với những đặc trưng pháp lý riêng. Mặc dù ngày nay pháp luật ở các nước thuộc hai hệ thống này cũng có nhiều thay đổi theo hướng bổ khuyết những mặt hạn chế, tích hợp nhiều nội dung mới, nhưng về cơ bản sự thay đổi ấy vẫn không làm mất đi những đặc thù riêng, triết lý riêng, từng tạo nên "bản sắc" của hai hệ thống pháp luật này.

Thứ Tư, 11 tháng 2, 2009

TRIẾT LÝ CỦA TỰ DO

Nguyễn Minh Tuấn
Nguồn: Tạp chí Tia sáng, Số 3/2005, tr.12-13.

Montesquieu trong cuốn Tinh thần pháp luật đã định nghĩa “Tự do là quyền được làm tất cả những điều mà luật cho phép”. Vậy tự do là gì? Đối với mỗi cá nhân, tự do là sự nhận thức được qui luật và thực hiện theo qui luật. Không thể và không bao giờ con người có tự do tuyệt đối bởi lẽ về mặt khách quan, con người không thể sống không phụ thuộc vào tự nhiên và không trong mối liên hệ với cá nhân khác, về mặt chủ quan, con người cũng không ai có khả năng nhận thức được tất cả, và cũng không ai sống mà tuyệt đối không phụ thuộc vê vật chất hoặc tinh thần với người khác. 

Thứ Ba, 13 tháng 1, 2009

NHÀ NƯỚC CỘNG HOÀ DÂN CHỦ ĐẦU TIÊN TRONG LỊCH SỬ NHÂN LOẠI

Nguyễn Minh Tuấn
(Trích từ sách: Lịch sử nhà nước và pháp luật thế giới, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà nội, 2007)
Nhà nước Aten được đánh giá là nhà nước dân chủ nhất thời kỳ cổ đại, thậm chí đây còn là hình thức dân chủ sơ khai nhất trong lịch sử từ khi có nhà nước và pháp luật, tính chất dân chủ của nó đặt cơ sở cho nền văn minh Hy La cổ đại và cho toàn bộ nền văn minh Châu Âu thời kỳ cận hiện đại sau này.
1. Sự hình thành nhà nước cộng hoà dân chủ chủ nô Aten


Cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng. Nhà nước Aten phát triển đến trình độ cao, suy cho cùng là do yếu tố kinh tế chi phối, quyết định. Về mặt vị trí địa lý, nhà nước Aten ra đời ở miền trung lục địa Hi Lạp, nơi là khu vực có nhiều khoáng sản, có đường bờ biển dài, nhiều vịnh, rất thuận lợi cho việc phát triển kinh tế công thương nghiệp (đặc biệt là thương mại đường biển).

Từ thế kỉ 12 TCN, tộc người Đôriêng gồm 4 bộ lạc đến xâm chiếm vùng đồng bằng miền Trung. Từ thế kỉ 8 TCN, 4 bộ lạc này liên minh với nhau hình thành nên Liên minh bộ lạc, đến thế kỉ thứ 7 TCN, đã xây dựng xong thành bang Aten, và thế kỉ 6 TCN thì nhà nước thực sự được hình thành. Những người đứng đầu 4 bộ lạc là quí tộc chủ nô và nắm toàn bộ quyền lực nhà nước.