Từ xưa đến nay, các vấn đề về nhà nước luôn là tâm điểm tranh luận của triết học, luật học, chính trị học trên thế giới, bởi lẽ nhà nước là một
hiện tượng xã hội rất phức tạp, đa dạng, và đặc biệt luôn vận động và
thay đổi theo thời gian. Tuy nhiên, nếu không có sự nhận thức toàn diện về nhà nước, thì khó có thể quản lý xã hội vì mục tiêu phát triển bền vững và vì con người. Do vậy, việc xem xét, đánh giá về các học thuyết, tư tưởng khác nhau về nhà nước, cả trên thế giới và ở Việt Nam hiện nay là rất cần thiết. Bài viết dưới đây đưa ra các cách tiếp cận khác nhau về nhà nước, đồng thời góp bàn về xu hướng vận động của nhà nước trên thế giới hiện nay.
I. Lý thuyết, quan niệm khác nhau về nhà nước, bản
chất của nhà nước trên thế giới
1. Các học thuyết, tư tưởng tiêu biểu về nhà nước
Trong lịch sử nhân loại đã có rất nhiều những học thuyết khác nhau về nhà nước. Mỗi một học thuyết gắn với thời điểm lịch sử khác nhau, thể hiện quan điểm chính trị, lợi ích khác nhau. Những học thuyết, quan điểm về nhà nước tiêu biểu bao gồm:
a) Thuyết thần quyền (Theologische
Theorie): Tác giả của những lý thuyết này cho rằng nhà nước là sản phẩm do
thượng đế sáng tạo ra để bảo vệ trật tự chung. Nhà nước phải chịu
trách nhiệm trước Thượng đế/ Chúa. Nhiệm vụ của nhà nước là thực hiện ý muốn
của Thượng đế/Chúa. Lý thuyết này tồn tại lâu dài ở thời trung cổ
(Mittelalter).
c) Lý
thuyết khế ước xã hội (Vertragstheorie): Đại đại diện tiêu
biểu của thuyết khế ước xã hội là John Locke (1632-1704), Jean Jacques Rousseau (1712-1778), Charles
Louis Montesquieu (1689-1775). Các nhà tư tưởng này đều thừa nhận nhà nước là sản phẩm của
một khế ước (hợp đồng) được ký kết trước hết giữa những con người tự do trên cơ
sở mỗi người tự nguyện nhường một phần trong số quyền tự nhiên vốn có của mình
giao cho một tổ chức đặc biệt đó là nhà nước, để bảo vệ lợi ích chung.
|
Nguồn ảnh (Quelle): amazon.com |
d) Lý
thuyết liên kết (Verbandslehre)
của Otto von Gierke (cuối thế kỷ 19): Gierke cho rằng thực tế cho thấy là con người luôn có sự liên kết với
nhau. Nhà nước là sự liên kết ( cộng đồng) của các thành viên trong
xã hội (Verbandspersönlichkeit) bởi những lợi ích chung và sự thỏa thuận về
pháp luật. Ông cho rằng bản
chất của nhà nước hiện đại là sự thống nhất giữa nhà nước và nhân dân. Nhà nước được nhân dân tổ chức ra.
e) Lý thuyết nhà nước phúc lợi chung (Wohlfahrtstheorie): Nhà nước
có nhiệm vụ hiện thực hóa những lợi ích của số đông người dân. Để đạt được mục
đích này, nhà nước cần phải được trao nhiều quyền hành một cách toàn diện, tối
đa. Lý thuyết này cổ vũ cho cảnh sát can thiệp sâu vào đời sống của cá nhân và
dẫn đến hiện tượng nhà nước cảnh sát (Polizeistaat) thế kỷ 17, 18.
f) Lý luận Macxit về nhà
nước (Marxismus): Nhà nước
là “sản phẩm và biểu hiện của những mâu thuẫn giai cấp không thể điều hòa
được.” Nhà nước là công cụ, là bộ máy của giai cấp thống trị về kinh tế để đàn
áp các giai cấp đối kháng. Cùng với tính
giai cấp, nhà nước còn có tính xã hội, là bộ máy quản lý các công việc chung
nảy sinh từ bản chất xã hội. Nhà nước XHCN là nhà nước kiểu mới, là công cụ của nhân
dân lao động nhằm xây dựng xã hội tiến bộ, dân chủ, công bằng.
g) Lý
thuyết nhà nước giả tưởng (Fiktionslehre) của Friedrich Carl von
Savigny (1779–1861), nhà luật học người Đức, thế kỷ thứ 19: Savigny thừa nhận
chỉ có cá nhân mới có thể có năng lực hành vi và là chủ thể của pháp luật (Rechtsperson). Do vậy, nhà nước tồn tại là
một sự giả tưởng (Fiktion).
h) Lý thuyết “nhà nước là một trật tự pháp lý” (Staat als Rechtsordnung) của nhà luật học Hans Kelsen
(đầu thế kỷ 20): Kelsen cho rằng nhà nước và pháp luật
luôn có sự thống nhất, vì nói đến vấn đề nhà nước thì đã bao hàm vấn đề pháp luật
rồi. Nhà
nước là tổ chức có sứ mệnh bảo vệ công lý, đảm bảo cho công lý được thực thi.
Nhà nước là một thực thể pháp lý, không có hệ thống pháp luật nào tách rời nhà
nước và cũng không có một nhà nước nào không quản lý xã hội bằng pháp luật.
i) Lý thuyết nhà nước dưới góc độ xã hội học (Soziologische
Staatslehren): Đại diện tiêu biểu của lý thuyết này là Max Weber, Hermann Heller. Nhà nước nhà nước là một tổ chức chính trị
với một hệ thống quyền lực thống nhất trong phạm vi một lãnh thổ nhất định. Nhà
nước tồn tại nhờ hành động của con người, mà những hành vi
này mang dấu ấn của các qui phạm xã hội. Nhà
nước là một mạng lưới các tương tác xã hội.
j) Lý thuyết hội
nhập (Integrationslehre) của Rudolf Smend
(1882 - 1975): Nhà nước là một thực thể phát sinh từ xã hội. Do nhu cầu hội
nhập, nên nhà nước liên tục tích hợp những nội dung mới. Nhà nước hiện đại là nhà nước mở (offenes Staat) và luôn động (dynamisch). Do
chức năng, nhiệm vụ của nhà nước thay đổi liên tục, nên nhà nước là một thực thể
xã hội tinh thần (geistig-soziale Wirklichkeit). Sự tồn tại, vận động, phát triển
của nhà nước đến đâu là do chính người dân của nhà nước đó quyết định (Bejahrung durch den
Staatsbürger).
2. Quan điểm về "nhà nước hiện đại" thể hiện trong các giáo trình
hiện nay ở CHLB Đức
Nhà nước hiện đại
phân biệt với nhà nước sơ khai
Các giáo
trình lý luận về nhà nước hiện nay ở CHLB Đức thừa nhận lý thuyết nhà nước hiện
đại (Lehre des modernen Staates) của Georg Jellinek (1851-1911). Theo đó, “nhà nước hiện đại” khác với nhà nước sơ khai. Nếu
như nhà nước sơ khai là phương thức tổ chức quyền lực chính trị chưa hoàn
chỉnh, chưa mang đầy đủ những đặc trưng cơ bản của một nhà nước, quyền lực nhà
nước chỉ nằm trong tay một người hoặc một nhóm người cụ thể, thì nhà nước hiện
đại phải thỏa mãn các tiêu chí cả bên trong và bên ngoài. Ở bên trong, phải hội tụ đủ những tiêu chí như: 1) là một nhà nước dân chủ, quyền lực nhà nước thuộc
về nhân dân (khác với nhà nước sơ khai quyền lực thuộc về
một người hoặc một nhóm người); 2) có cơ chế phân công
quyền lực, cân bằng, giới hạn và kiểm soát quyền lực nhà nước; 3) có một hệ
thống các quyền cơ bản có hiệu lực trực tiếp và có cơ chế bảo vệ hiệu quả. Ở bên ngoài, nhà nước được hiểu là quốc gia (Sovereign state) đặt
trong mối quan hệ đối ngoại với các chủ thể khác của Công pháp quốc tế, được
công nhân là một chủ thể cơ bản của Công pháp quốc tế. Georg Jellinek cũng đưa ra luận thuyết ba yếu tố
(Drei-Elemente-Lehre) trong đó khẳng định một nhà nước hiện đại được luật pháp
quốc tế công nhận khi có các điều kiện về dân cư (Staatsvolk), lãnh thổ
(Staatsgebiet) và chủ quyền (Staatsgewalt).
Nhà nước hiện đại là
một pháp nhân của luật công
|
Nguồn ảnh (Quelle): Amazon.de |
Nhiều nhà luật học hiện nay cũng đánh giá cao luận điểm về
nhà nước với tư cách là “một pháp nhân của luật công chịu trách nhiệm” của nhà
luật học người Đức Wilhelm Eduard
Albrecht (1800 –1876). Albrecht lý
giải rằng trong chế độ toàn trị, chuyên chế, nhà nước không chịu trách nhiệm.
Nhà nước hiện đại là nhà nước phải chịu trách nhiệm. Vì vậy, Albrecht cho rằng „nhà
nước là một pháp nhân công quyền (eine juristische Person des öffentlichen
Rechts). Khác với thể nhân (eine natürliche Person), nhà nước không có tay,
chân hay các bộ phận sinh lý khác. Tuy nhiên nhà nước là một pháp nhân công quyền,
có năng lực hành vi (Handlungsfähigkeit) và những hành vi này được thực hiện
thông qua các bộ phận cấu thành của nhà nước (bao gồm các cơ quan nhà nước như
cơ quan lập pháp, hành pháp hay tư pháp; các cán bộ, công chức nhà nước…). Là một
pháp nhân độc lập, do vậy nhà nước cũng có những quyền và nghĩa vụ nhất định,
giống như mọi chủ thể pháp luật khác.
Chẳng hạn, những quyền cơ bản của công dân ở trong Hiến pháp có giá trị ràng buộc
trách nhiệm của nhà nước phải tuân thủ và bảo vệ. Chính vì quan niệm rằng nhà
nước là một pháp nhân, nên theo quan niệm về nhà nước pháp quyền hiện đại, nhà
nước không còn là vị vua đứng trên hay đứng ngoài pháp luật mà là trong luật (im
Recht) và phải hành động đồng thời chịu trách nhiệm giống như mọi công dân.
Nhà nước hiện đại là nhà nước pháp quyền
|
Nguồn ảnh (Quelle): nederlands.nl |
Đặc tính
cơ bản của nhà nước pháp quyền là nhà nước phải bị giới hạn quyền lực bởi Hiến
pháp và Luật. Nhà nước không thể tồn tại như một ông vua trong chế độ toàn trị
(Absolutismus), nơi mà nhà vua có thể đứng trên pháp luật. Nhà nước pháp quyền
là nhà nước chịu trách nhiệm, bình đẳng như các công dân khác. Để bảo đảm cho
việc hiện thực hóa nhà nước pháp quyền, nhất định phải tồn tại những yêu cầu về hình thức của nhà nước pháp quyền như: phân chia quyền lực, đảm bảo tính tối cao của Hiến
pháp và các đạo luật, đảm bảo tính hợp
hiến và hợp pháp của hành chính nhà nước, đảm bảo tư pháp độc lập và các
bảo đảm thủ tục tố tụng, quyền tố tụng Hiến pháp. Những yêu cầu về nội dung
của nhà nước pháp quyền gồm: tính chất an toàn pháp lý, cấm hành xử tùy tiện,
vô luật và tính hiệu lực trực tiếp các quyền cơ bản.
3. Định nghĩa nhà nước trong các Từ điển luật học
trên thế giới
Theo Từ điển Black’s Law, nhà nước là một
hệ thống có tính chính trị của nhân dân, do nhân dân tổ chức nên; là hệ thống
nơi mà các phán quyết của tư pháp và quyết định hành chính được thực thi thông
qua hành vi của con người cụ thể được nhà nước trao quyền.
Theo Từ điển Oxford, nhà nước (State) là “a. một cộng
đồng chính trị có tổ chức dưới hình thức là một chính quyền (government); một
khối thịnh vượng chung (a commonwealth); một dân tộc (a nation). b. một cộng đồng
theo nghĩa một bộ phận của một nền cộng hòa liên bang, ví dụ như Hợp chủng quốc
Hoa Kỳ”.
|
Nguồn ảnh (Quelle): beck-shop.de |
Theo Từ điển luật học (Rechtswörterbuch) ở Đức của tác giả Creifelds, nhà nước được hiểu là “một cộng
đồng của các các cá nhân trong một tổ chức chính trị của mình, tổ chức ấy bao gồm
lãnh thổ (ein Staatsgebiet), dân cư (ein Staatsvolk) và hệ thống chính quyền có
chủ quyền (eine Staatsgewalt).”
Theo Từ điển lịch sử pháp luật Châu Âu (europäische Rechtsgeschichte) của tác giả Köbler, nhà nước là một
tổ chức thỏa mãn ba điều kiện dân cư, lãnh thổ và quyền lực. Nhà nước trước hết phải có dân cư, bao gồm những người
có cùng chung một quốc tịch. Ngoài ra, nhà nước nào cũng có một lãnh thổ giới hạn,
trong đó dân cư sinh sống và tổ chức quyền lực. Bên cạnh đó, nhà nước phải có
chủ quyền, chủ quyền ấy thể hiện ở việc quản lý của nhà nước đối với dân cư
theo lãnh thổ, thể hiện ở quyền tự quyết của nhà nước đó trong các vấn đề đối nội
và đối ngoại. Nhà
nước có thể được gọi tắt, thông qua những đại diện như các cơ quan nhà nước,
nhân viên nhà nước hoặc các tổ chức. Nhà nước theo nghĩa là pháp nhân của luật
công như ở Đức hiện nay bao gồm liên bang và tiểu bang (Bund und Länder). Tùy
cách giải thích về chính trị mà nhà nước có thể được giải thích thành nhà nước
cảnh sát (Polizeistaat), nhà nước pháp quyền (Rechtsstaat), nhà nước xã hội
(Sozialstaat), Nhà nước phúc lợi chung (Wohlfahrtsstaat).
II. Quan điểm hiện nay của các nhà luật học Việt
Nam
1. Định nghĩa
nhà nước trong Từ điển luật học
Theo Từ điển
luật học của tập thể tác giả do tác giả Nguyễn Đình Lộc (Chủ tịch Hội đồng biên soạn), xuất bản năm 2006, nhà nước được định nghĩa là: “tổ chức quyền lực chính trị của xã hội
có giai cấp, có lãnh thổ, dân cư, và chính quyền độc lập, có khả năng đặt ra và
thực thi pháp luật nhằm thiết lập trật tự xã hội nhất định trong phạm vi lãnh
thổ của mình”. Trong cuốn Từ điển thuật ngữ lý
luận nhà nước và pháp luật, tác giả Thái Vĩnh Thắng cũng có cách định nghĩa nhà nước tương tự và chỉ là thay cụm từ “của xã hội có giai cấp” bằng “của xã hội”.
2. Định nghĩa
nhà nước trong các Giáo trình đào tạo luật học
Về phương diện
giáo trình, hiện nay cũng có nhiều cách định nghĩa khác nhau về nhà nước. Những
định nghĩa nhà nước này thường được xác định qua việc nêu một số dấu hiệu, đặc
trưng cơ bản của nhà nước, chức năng nhà nước, xu thế phát triển của
nhà nước, trong đó vẫn nhấn mạnh đến hai phương diện cơ bản thuộc bản chất của nhà nước theo học thuyết Mác - Lênin là tính giai cấp và tính xã hội.
Chẳng hạn:
Theo giáo trình Lý luận chung nhà nước và pháp luật do
tác giả Lê Minh Tâm (chủ biên): “Nhà nước là một tổ
chức đặc biệt của quyền lực chính trị, một bộ máy chuyên làm nhiệm vụ cưỡng chế
và thực hiện các chức năng quản lý đặc biệt nhằm duy trì trật tự xã hội, thực
hiện mục đích bảo vệ địa vị của giai cấp thống trị trong xã hội.”
Theo giáo trình Lý luận nhà nước và pháp luật của tác
giả Nguyễn Minh Đoan: “Nhà nước là tổ chức quyền lực
chính trị công cộng đặc biệt, một bộ máy đặc biệt để cưỡng chế và thực hiện các
chức năng quản lý xã hội, phục vụ lợi ích và thực hiện mục đích của giai cấp thống
trị và của toàn xã hội.”
Theo giáo trình Lý luận về nhà nước và pháp luật của tác
giả Nguyễn Văn Động: “Nhà nước là sản phẩm của xã hội
đã phát triển đến một trình độ nhất định, là tổ chức quyền lực chính trị đặc biệt
của một hay nhiều giai cấp mà tổ chức quyền lực chính trị đó có bộ máy chuyên nghiệp vừa thực hiện trấn
áp bằng bạo lực, vừa quản lý xã hội và điều tiết các nhu cầu, lợi ích của các
giai cấp, tầng lớp xã hội khác nhau nhằm bảo đảm cho xã hội luôn ổn định, trật
tự và an toàn.”
Theo giáo trình Lý luận chung về nhà nước và pháp luật
của tập thể tác giả, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà nội, do tác giả Hoàng Thị Kim Quế (chủ
biên): “Nhà nước là hình thức (phương thức) tổ chức xã hội có giai cấp, là tổ
chức quyền lực chính trị công cộng đặc biệt, có chức năng quản lý xã hội để phục vụ lợi ích trước hết cho giai cấp
thống trị và thực hiện những hoạt động chung nảy sinh từ bản chất của xã hội.”
III. Xu hướng nhà nước hiện đại: Nhà nước là một pháp nhân của luật công, Nhà nước dân chủ, pháp quyền và chịu trách nhiệm
Các học thuyết, quan niệm khác nhau về nhà
nước cho thấy: Mỗi một cách tiếp cận đều phản ánh nhận thức, lợi ích và sự phát triển đa dạng của nhà nước ở các giai đoạn lịch sử khác nhau. Tôi cho rằng sẽ không có một định nghĩa chung, duy nhất và phổ quát về nhà nước. Trong tương lai, cũng sẽ không có một định nghĩa như vậy. Điều này là tất yếu đối với một hiện tượng xã hội đa dạng, đa chiều và phức tạp như nhà nước.
Dù không có định nghĩa duy nhất, nhưng thế giới đương đại đang hiện hữu một xu hướng chung trong quan niệm về nhà nước đó là:
1. Xu hướng quan niệm nhà nước trong lịch sử nhân loại có hai dạng là nhà nước cổ điển (early state) và nhà nước hiện đại (modern state). Các
nhà nước hiện đại ngày nay phải thỏa mãn đầy đủ các tiêu chí nghiêm ngặt thuộc bên trong nhà nước (các tiêu chí của luật hiến pháp hiện đại) và các tiêu chí ở bên ngoài nhà nước (các tiêu chí của luật quốc tế hiện đại).
2. Xu hướng nhìn nhận nhà nước là một pháp nhân của luật công, là công cụ
điều hòa các loại lợi ích xã hội vì con người, đảm bảo công bằng và trật tự xã hội. Đó là xu hướng từ nhà nước cai trị sang nhà nước phục vụ nhân dân, từ nhà
nước chuyên quyền, độc đoán, không chịu trách nhiệm sang nhà nước dân chủ, pháp quyền và nhà nước chịu trách nhiệm.
07.09.2013
NMT
Katz, Alfred, Staatsrecht (Grundkurs im öffentlichen
Recht), 16. Aufl., Heidelberg 2005, Rn. 30.
Katz, Alfred, Staatsrecht (Grundkurs im öffentlichen
Recht), 16. Aufl., Heidelberg 2005, Rn. 30.
Gröpl, Staatsrecht I, 4. Aufl.,
München 2012, Rn. 87 f.
Doehring, Allgemeine Staatslehre, eine
systematische Darstellung, 3. Aufl., Heidelberg 2004, Rn. 33 ff.