TS. Nguyễn Minh Tuấn
Nguồn: Tạp chí Nhà nước và
Pháp luật, Số 8 (304) năm 2013, tr. 3–9.
Trong lịch sử nhân
loại đã có rất nhiều những học thuyết khác nhau lý giải về nguồn gốc ra đời của
nhà nước. Những học thuyết này rất đa dạng và khác biệt. Sở dĩ xuất hiện
nhiều học thuyết như vậy trước tiên là do khả năng nhận thức của con
người mỗi thời kì là khác nhau, ngoài ra quá trình hình thành nhà
nước lại diễn ra rất phức tạp, đa dạng ở mỗi khu vực địa lí và mỗi
một nhà nước. Bên cạnh đó, lý giải nguồn gốc nhà nước còn phản ánh ý
thức hệ, trong nhiều trường hợp đã có thời cách lý giải đó chỉ nhằm phục vụ
lợi ích của bộ phận những người thống trị.
Các tác giả của thuyết thần quyền cho rằng nhà nước là
sản phẩm do thượng đế sáng tạo ra để bảo vệ trật tự chung.[1] Các học giả thuyết tâm lý thì
cho rằng nhà nước ra đời là do nhu cầu của con người nguyên thuỷ luôn muốn phụ
thuộc vào các thủ lĩnh.[2] Thuyết gia trưởng lại
giải thích: nhà nước là sản phẩm phát triển của gia đình, là hình thức tổ chức
tự nhiên của cuộc sống con người.[3] Còn thuyết bạo lực lại
cho rằng nhà nước xuất hiện trực tiếp chẳng qua là từ việc sử dụng bạo lực của
thị tộc này đối với thị tộc khác mà kết quả là thị tộc chiến thắng thiết lập
một hệ thống cơ quan đặc biệt (nhà nước) để nô dịch kẻ chiến bại và do vậy, nhà
nước là công cụ của kẻ mạnh thống trị kẻ yếu.[4]
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin, nhà nước là “sản
phẩm và biểu hiện của những mâu thuẫn giai cấp không thể điều hòa được.”[5] Nhà
nước trước hết là “bộ máy trấn áp đặc biệt của giai cấp này đối với giai cấp
khác.”[6] Tiền
đề kinh tế cho sự ra đời nhà nước là chế độ tư hữu tài sản. Tiền đề xã hội cho
sự ra đời nhà nước là sự phân chia xã hội thành các giai cấp (hoặc các tầng lớp
xã hội) mà giữa các giai cấp, tầng lớp đó, những lợi ích cơ bản đối kháng nhau
đến mức không thể điều hoà được. Chính vì vậy, “nhà nước” được hiểu là “hình
thức (phương thức) tổ chức xã hội có giai cấp, là tổ chức quyền lực chính trị
công cộng đặc biệt, có chức năng quản lý xã hội để phục vụ lợi ích trước hết
cho giai cấp thống trị và thực hiện những hoạt động nảy sinh từ bản chất của xã
hội.”[7]
Chúng tôi cho rằng sự ra đời nhà nước sơ khai trong
lịch sử nhân loại thực tế diễn ra rất đa dạng, trong một thời gian rất lâu dài,
do rất nhiều nguyên nhân khác nhau. Ngoài hai nguyên nhân kinh tế và nguyên
nhân xã hội như học thuyết Mác-Lênin chỉ ra, sự xuất hiện nhà nước sơ khai (hay
còn gọi là nhà nước tiền công nghiệp) còn có nhiều nhân tố khác với mức độ ảnh
hưởng nhiều ít, trực tiếp hoặc gián tiếp rất khác nhau,[8] trong đó có các yếu tố:
- Yếu tố bên trong, như vị trí địa lý, thổ nhưỡng, khí
hậu, nguồn cung cấp thức ăn, giao thông... Chính những yếu tố này là cơ sở để
thu hút sự tập trung dân cư, khiến cho có nơi này nhà nước ra đời sớm hơn nơi
khác, trở thành trung tâm kinh tế - chính trị - văn hoá sớm hơn các vùng khác;
- Yếu tố bên ngoài, như nhu cầu hợp nhất các cộng đồng
dân cư tạo sự thuận lợi cho phát triển kinh tế, giao lưu buôn bán (Inter-Polity
Trade); nhu cầu tự vệ trước khả năng chiến tranh (War); sự ra đời hay phát
triển của các nhà nước láng giềng (Tributary or Client State Formation); sự
cạnh tranh về sinh thái và chủng tộc (ethnic and ecological competition); sự
phát triển về vũ khí quân sự của các nhà nước láng giềng (military
technology)…;
- và các yếu tố văn hoá – kinh tế - khoa học, kĩ thuật, như
sự ra đời của chữ viết, sự ra đời của các thành thị[9], sự tiến bộ về kĩ thuật, sự ra đời, ảnh
hưởng của tôn giáo, sự tập trung hoá về chính trị, sự thống nhất về tư tưởng, ý
thức hệ.
Chẳng hạn, ở Việt Nam, những kết quả nghiên cứu mới nhất của giới sử
học, khảo cổ học cho thấy nhà nước đầu tiên xuất hiện trên lãnh thổ Việt Nam là
vào cuối thời đại văn hóa Đông Sơn, tức là cách ngày nay khoảng 2500 – 2700 năm
dựa trên những chứng cứ khảo cổ học qua việc phân tích sự khác biệt của các
ngôi mộ táng, đặc biệt là ngôi mộ cổ Việt Khê (ở Hải Phòng).[10] Hai
nhân tố trị thủy và chống ngoại xâm là những yêu cầu khách quan thúc đẩy nhanh
quá trình hình thành nhà nước Văn Lang - Âu Lạc, một nhà nước đầu tiên rất sơ
khai ở Việt Nam. Nhà nước này ra đời thực chất là một quá trình rất lâu dài.
Khi mới ra đời, nhà nước được tổ chức theo hình thức quân chủ, người đứng đầu
là Hùng Vương, thành lập theo nguyên tắc cha truyền con nối. Nhà nước Văn Lang
- Âu Lạc mang tính chất là một tổ chức cao hơn làng, tổ chức ấy có đặc trưng là
tính đại diện cao, tính liên kết mạnh và tính giai cấp yếu.[11]
Khác với cách tiếp cận của các học thuyết kể trên, ngày nay trên thế giới, các nhà khoa học lý luận về
nhà nước đã phân chia nhà nước thành hai dạng: nhà nước sơ khai (early
state), hay còn gọi là nhà nước tiền công nghiệp (pre-industrial
state) và nhà nước hiện đại (mordern state), hay còn gọi là nhà
nước công nghiệp (industrial states).[12] Theo
đó nhà nước tiền công nghiệp là phương thức tổ chức quyền lực chính trị chưa
hoàn chỉnh, chưa mang đầy đủ những đặc trưng cơ bản của một nhà nước.[13]
Xét về thời gian, những nhà nước sơ khai đầu tiên ra
đời sớm nhất ở Phương Đông cổ đại là ở Lưỡng Hà, Ai Cập, Trung Quốc, Ấn Độ và ở
Phương Tây cổ đại là Hy Lạp, La Mã.[14] Bước
sang thời Trung cổ, những nhà nước này do ảnh hưởng của tình trạng phân quyền
cát cứ kéo dài, quyền lực nhà nước thời Trung Cổ bị chia sẻ với các thế lực của
giáo hội, yếu tố quyền lực của những nhà nước này ở Phương Tây bị hạn chế.[15]
Khác với các nhà nước sơ khai là các nhà
nước hiện đại. Các học thuyết, tư tưởng đầu tiên về nhà nước hiện đại
(mordern state) chỉ bắt đầu từ thời kỳ khai sáng, với những đại diện tiêu biểu
như John Locke (1632-1704), Jean Jacques Rousseau (1712-1778), Charles
Louis Montesquieu (1689-1775) … Các nhà tư tưởng này đều lấy lý thuyết
về quyền tự nhiên làm tiền đề tư tưởng để luận giải.
John Locke (1632-1704) trong tác phẩm Hai khảo luận về chính quyền (Two
Treaties of Government) đã đặt cơ sở cho thuyết khế ước xã hội.[16] Theo John
Locke, mọi người dân đều tự do, bình đẳng. Nhà nước ra đời là sản phẩm của
một khế ước (hợp đồng) được ký kết trước hết giữa những con người tự do trên cơ
sở mỗi người tự nguyện nhường một phần trong số quyền tự nhiên vốn có của mình
giao cho một tổ chức đặc biệt đó là nhà nước, để bảo vệ lợi ích chung. John
Locke đã nhấn mạnh rằng mặc dù có việc ủy quyền nhưng quyền lực nhà
nước vẫn thuộc về nhân dân.[17] Sau
này Jean Jachques Rousseau (1712-1778) trong tác phẩm Khế
ước xã hội (Du Contrat Social) cũng khẳng định rằng nhân dân là chủ
thể tối cao của quyền lực nhà nước (souveraineté populaire). Nhà nước chỉ là
người đại diện và quyền lực nhà nước có được là do người dân ủy quyền.[18] Đặc
biệt sau này trong tác phẩm Tinh thần pháp luật (De L'eprit
des lois), Montesquieu (1689-1755) đã kế thừa, phát triển và nâng
lên thành học thuyết phân quyền (gọi tắt của từ “phân công quyền lực giữa các
quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp” [Distribution des pouvois]).[19] Ông cho rằng bản chất khi có quyền lực
là dễ dẫn tới tình trạng lạm quyền, vì vậy cần phải phân công, kiểm soát và
giới hạn quyền lực để tránh lạm quyền và bảo vệ dân quyền.[20]
Cụ thể hóa các tư tưởng của các nhà khai sáng về
nhà nước, vào năm 1900, Georg Jellinek (1851-1911)[21],
một nhà luật học người Đức, đã chỉ ra rằng dưới góc độ pháp lý, một tổ
chức được coi là “nhà nước hiện đại” phải thỏa mãn các tiêu chí cả bên trong và
bên ngoài. Ở bên trong, phải hội tụ đủ những tiêu chí như:
1) quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân; 2) có cơ chế phân công quyền lực, cân
bằng, giới hạn và kiểm soát quyền lực nhà nước; 3) có một hệ thống các quyền cơ
bản có hiệu lực trực tiếp và có cơ chế bảo vệ hiệu quả. Ở bên ngoài,
nhà nước được hiểu là quốc gia (Sovereign state) đặt trong mối quan hệ đối
ngoại với các chủ thể khác của Công pháp quốc tế, được công nhân là một chủ thể
cơ bản của Công pháp quốc tế.[22]
Georg Jellinek cũng cho rằng khái niệm nhà nước (state) rộng hơn
khái niệm quốc gia (sovereign state).[23] Nhà
nước được hiểu ở cả hai khía cạnh: “Khía cạnh quan hệ đối nội (tức là quan
hệ bên trong nhà nước, giữa nhà nước và công dân – thuộc góc độ nghiên cứu của
lĩnh vực Hiến pháp) và khía cạnh quan hệ đối ngoại (tức là quan hệ bên ngoài
nhà nước, giữa các nhà nước với nhau – thuộc góc độ nghiên cứu của lĩnh vực
luật quốc tế)“.[24] Bên cạnh đó, Georg Jellinek cũng
đưa ra luận thuyết ba yếu tố (Drei-Elemente-Lehre) trong đó khẳng định một nhà
nước hiện đại được luật pháp quốc tế công nhận khi có các điều kiện về dân cư
(Staatsvolk), lãnh thổ (Staatsgebiet) và chủ quyền (Staatsgewalt).[25]
Từ cuối thế kỷ 20, đặc biệt là đầu thế kỷ 21, tư
duy, quan niệm về nhà nước đã có rất nhiều thay đổi, do bối cảnh toàn cầu hóa,
quốc tế hóa.[26] Thay
đổi đó do cả những yếu tố bên trong và bên ngoài nhà nước đem lại. Bên trong là
việc gia tăng xu hướng tư nhân hóa các nhiệm vụ của nhà nước, sự lớn mạnh của
xã hội dân sự, kinh tế tư nhân và phong trào đấu tranh đòi các quyền tự do, dân
chủ và minh bạch hóa trách nhiệm của nhà nước. Bên ngoài là việc gia tăng xu
hướng liên kết giữa các nhà nước trong việc giải quyết các vấn đề chung mà một
nước không thể tự giải quyết được như suy thoái kinh tế, dân số, môi sinh, dịch
bệnh, khủng bố, tội phạm quốc tế…Những tác động đó, dẫn đến hàng loạt các yếu
tố từ tư tưởng, học thuyết về nhà nước đến bản chất, bộ máy, hình thức và vai
trò, chức năng của nhà nước cũng thay đổi theo. [27]
Ở bên trong, xu hướng của nhà nước hiện đại không còn là cai trị, áp đặt, mệnh
lệnh nữa, mà là xu hướng dân chủ, pháp quyền, gắn kết hài hòa giữa kinh tế thị
trường và giải quyết các vấn đề xã hội, phục vụ người dân; quyền lực nhà nước
(thay vì tập trung) đã dần định hình xu hướng phân công quyền lực[28] trong
sự kiểm soát và cân bằng giữa các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp; các
quyền tự do, dân chủ của người dân ngày càng được thừa nhận, mở rộng và đảo đảm
thực hiện.
Ở bên ngoài, các nhà nước cũng có sự biến đổi mạnh mẽ thể hiện ở xu hướng hợp
nhất hay ly khai ở nhiều quốc gia hay xu hướng liên minh liên kết
giữa các quốc gia để cùng giải quyết các vấn đề chung trên bình diện khu vực
hoặc quốc tế.[29]
Trên phương diện quốc tế, có thể thấy từ thực tế lịch sử, trong một
không gian và thời gian xác định, một nhà nước có thể ra đời hoặc diệt vong.[30] Nguyên
lý chung, một nhà nước không tồn tại, khi thiếu hoặc mất đi một trong ba yếu
tố: dân cư, lãnh thổ hoặc quyền lực.[31] Các nhà nước đương đại hiện nay có hai xu hướng chính
là xu hướng ly khai và xu hướng hợp nhất.[32]
Ly khai có hai dạng thức bao gồm: ly khai thay thế (dismemberment) và ly
khai chia tách (secession).[33]
Ly khai thay thế là trường hợp trên
lãnh thổ một nhà nước cũ ra đời một hay nhiều nhà nước mới, đồng thời dẫn đến
hệ quả là nhà nước cũ bị diệt vong.[34] Thí
dụ: Năm 1918, nền quân chủ Áo - Hung sụp đổ do sự ly khai thành các nhà nước Áo,
Hung, Tiệp khắc và Nam Tư. Tương tự như vậy, vào năm 1993 là sự tan rã của Tiệp
khắc bởi sự ly khai thành Cộng hòa Séc và Xlôvakia, hay sự sụp đổ của Nam Tư và
Liên bang Xô Viết năm 1991.
Khác với hình thức ly khai thay thế, hình thức ly khai chia
tách là việc tách ra hình thành nhà nước mới từ một nhà nước cũ mà
nhà nước cũ vẫn không mất đi.[35] Việc
chia tách này được thực hiện trên cơ sở tự nguyện, thông qua một thỏa thuận
quốc tế nhất định, Thí dụ: Nhà nước Eritrea ly khai khỏi Ethiopia trở thành một
quốc gia độc lập và được quốc tế công nhận vào năm 1993; hoặc Nhà
nước Montenegro sau một cuộc trưng cầu dân ý vào cuối tháng 5 năm 2006, tách ra
khỏi liên bang Serbia và Montenegro (một quốc gia hậu thân của Liên bang
Nam Tư cũ) vào ngày 3/6/2006.
Xu hướng thứ hai là xu hướng hợp nhất. Hợp nhất có hai hình thức là hợp nhất đơn quốc gia (incorporation) và hợp
nhất đa quốc gia (merger).[36]
Hợp nhất đơn quốc gia (incorporation) là việc một nhà nước
sáp nhập một cách tự nguyện vào một nhà nước khác đã tồn tại[37]. Thí dụ: Các hiệp ước vào năm 1871 về việc hợp nhất của các nhà nước ở miền
Nam nước Đức vào liên bang của miền Bắc nước Đức hoặc việc hợp nhất của nhà
nước Cộng hòa dân chủ Đức (Đông Đức) vào nhà nước Cộng hòa liên bang Đức (Tây
Đức) vào năm 1990; Trước ngày 22/5/1990, trên lãnh thổ của Yemen tồn tại hai
nhà nước Bắc và Nam Yemen. Sau ngày này trên cơ sở sự thống nhất của nguyên thủ
hai nhà nước, Yemen đã trở thành một nhà nước Cộng hòa nghị viện, đa đảng.
Hợp nhất đa quốc gia (merger) là việc ít nhất
hai nhà nước cùng tự nguyện sáp nhập với một nhà nước khác đã tồn tại[38]. Thí dụ: Sự hợp nhất của các nhà nước Italia thành đế chế Italia độc lập
trong những năm 1815 đến 1870.
Trên thực tế, sự hình thành nhà nước mới hay giải tán một nhà nước hoặc
việc làm thay đổi các yếu tố cấu thành nhà nước còn có thể được thực hiện thông
qua nhiều hình thức khác. Có các trường hợp cụ thể như: 1). Thông qua một hiệp định được ký kết
bởi những nhà nước khác dẫn đến ra đời nhà nước mới. Thí dụ: Việc ra đời một
nhà nước đảo Zypern là bắt nguồn từ Hiệp định ngày 16/8/1960 giữa ba nước Vương
quốc Anh, Hy Lạp và Thổ Nhĩ Kỳ.[39]; 2). Thông
qua một hình thức sang nhượng hợp pháp làm thay đổi các yếu tố về dân cư, lãnh
thổ. Thí dụ: Mỹ mua lại vùng đất Louisiana rộng 280.000 dặm vuông từ Pháp vào
năm 1803 và vùng Alaska rộng 586.412 dặm vuông của Đế chế Nga năm 1867.[40]; 3). Thông qua một hiệp định thống nhất dân tộc. Thí dụ: Đế chế Đức vào năm 1871 được hình thành thông qua một Hiệp định hòa bình do nhu
cầu thống nhất thành một nhà nước của tất cả những người Đức.[41]; 4). Thông
qua một đạo luật. Thí dụ: việc giải tán Khối Thịnh Vượng Chung (British
Commonwealth) và thực hiện chính sách phi thực dân hóa là trên cơ sở đạo luật
Westminster của Anh (United Kingdom) ngày 11/11/1931.[42]
Ngày nay, Liên hiệp quốc (United Nations) là một tổ
chức quốc tế lớn nhất thế giới. Tại thời điểm thành lập năm 1945, tổ chức này
chỉ có khoảng 80 nhà nước thành viên (member states), cho đến nay tổ chức này
đã có 193 nhà nước thành viên (số liệu năm 2013).[43] Điều
này cũng phần nào phản ánh sự đa dạng về các khả năng hình thành nên
những nhà nước mới trên toàn thế giới trong một khoảng thời gian rất ngắn. Quá
trình ly khai hay hợp nhất các nhà nước đều
có thể đưa đến hệ quả là nhà nước mới ra đời hoặc một nhà nước cũ bị thay thế.
Xu thế quốc tế hóa, toàn cầu hóa đã và đang làm thay đổi nhanh chóng,
mạnh mẽ các yếu tố bên trong và bên ngoài nhà nước. Để có cái nhìn bao quát,
toàn diện hơn về nhà nước, cần thiết phải nghiên cứu nhà nước trong tiến trình
lịch sử để thấy rõ sự đổi thay cả về phương diện bản chất, chức năng, hình
thức, bộ máy của nhà nước. Nhà nước nào cũng phải thay đổi để tồn tại trong một
môi trường quốc tế ngày càng cởi mở, bình đẳng. Đó là con đường đi tất yếu của
thời đại.
[1] Đại biểu tiêu biểu của thuyết thần quyền,
trong đó có phái quân chủ là Martin Luther (1483-1546), Robert
Filmer (1588-1653), phái dân quyền là John Calvin (1509-1564).
[2] Đại biểu tiêu biểu của thuyết tâm lý là L.
Petozazitki, Phoreder…
[3] Đại biểu tiêu biểu của thuyết gia trưởng là Aristote (384-322
TCN) và nhiều nhà triết học khác.
[4] Đại biểu tiêu biểu của thuyết bạo lực là David
Hume (1711-1776), Ludwig Gumplowicz (1838-1909).
[5] V.I. Lênin, Toàn tập, Tập 33, NXB
Tiến bộ, M. 1979, tr. 9.
[6] V.I. Lênin, Sách đã dẫn, Tập 33,
tr. 110.
[7] Hoàng Thị Kim Quế (chủ biên),
Giáo trình Lý luận chung về nhà nước và pháp luật, Nhà xuất bản Đại học Quốc
gia Hà nội, Hà nội, 2005, tr. 87. Tương tự, theo giáo trình lý luận
nhà nước và pháp luật của Trường Đại học Luật Hà nội thì nhà nước được định
nghĩa là “một tổ chức đặc biệt của quyền lực chính trị, một bộ máy
chuyên làm nhiệm vụ cưỡng chế và thực hiện các chức năng quản lý đặc biệt nhằm
duy trì trật tự xã hội, thực hiện mục đích bảo vệ địa vị của giai cấp thống trị
trong xã hội” (Xem: Lê Minh Tâm (chủ biên), Giáo trình Lý
luận nhà nước và pháp luật, Nhà xuất bản Tư Pháp, Hà nội, 2006, tr. 49).
[8] Hiện nay có nhiều quan điểm của
các nhà khoa học Phương Tây khác với học thuyết Mác – Lênin. Họ đánh giá rằng
học thuyết Mác - Lênin khi lý giải về nguồn gốc nhà nước đã quá nặng nề về yếu
tố giai cấp, mà yếu tố này ở nhà nước sơ khai không phải lúc nào cũng được thể
hiện một cách rõ ràng (Chẳng hạn trong các tác phẩm: Anatolii M.
Khazanov, Some Theoretical Problems of the Study of the Early State, in the
book : The Early State, edited by Henri J.M Claessen, Peter
Skalnik, Mouton Publishers, 1978, p. 90-91; Ronald Cohen,
State Origins : A Reappraisal, in the book : The Early State, edited
by Henri J.M Claessen, Peter Skalnik, Mouton Publishers, The Hague,
The Netherlands, 1978, p.32-71).
[9] Việc xuất hiện chữ viết, thành thị, nhà nước
là các yếu tố mà nhiều nhà khoa học Phương Tây cho rằng đó là biểu hiện của xã
hội bước vào thời kỳ văn minh (civilization). Xem thêm: Anatolii M.
Khazanov, Some Theoretical Problems of the Study of the Early State, in the
book : The Early State, edited by Henri J.M Claessen, Peter
Skalnik, Mouton Publishers, The Hague, The Netherlands, 1978, p. 90-91.
[10] Vũ Minh Giang, Những đặc trưng cơ bản của bộ máy quản lý đất nước
và hệ thống chính trị nước ta trước thời kỳ đổi mới, Chương trình Khoa học –
Công nghệ cấp nhà nước KX. 10, Hà nội, 2006, tr. 29; Nguyễn Minh Tuấn, Nhà
nước Văn Lang – Nhà nước đầu tiên trong lịch sử Việt Nam (Kỳ 2), Tạp chí dân
chủ và pháp luật, số 12 (141)/ 2003, tr. 47.
[11] Xem thêm: Hà Văn Tấn, Làng,
liên làng và siêu làng (Mấy vấn đề về phương pháp), Tạp chí Khoa học, Đại học
Tổng hợp Hà Nội, số 1, 1987, in lại trong Một số vấn đề Lý luận Sử học, Nxb
ĐHQGHN, 2007; Nguyễn Minh Tuấn, Nhà nước Văn Lang - nhà nước
siêu làng, Tạp chí Khoa học, Đại học Quốc gia Hà nội, chuyên san Kinh tế -
Luật, Tập 23, Số 3, năm 2007.
[12] Chẳng hạn trong các tác phẩm: Ronald
Cohen, State Origins : A Reappraisal, in the book : The Early
State, edited by Henri J.M Claessen, Peter Skalnik, Mouton
Publishers, The Hague, The Netherlands, 1978, p.32-71; Doehring, Allgemeine
Staatslehre, eine systematische Darstellung, 3. Aufl., Heidelberg 2004,
Rn. 1-3; Schöbener, Allgemeine Staatslehre, München,
2009, Rn. 13 f.
[13] Ronald Cohen, State Origins : A
Reappraisal, in the book : The Early State, edited by Henri J.M Claessen,
Peter Skalnik, Mouton Publishers, The Hague, The Netherlands, 1978, p.32-71.
Ngoài ra, ở CHLB Đức, Giáo sư Schöbener ở Đại học Cologne cũng
cho rằng: “Những phương thức tổ chức quyền lực thời cổ đại và thời trung cổ
đã tồn tại chỉ là những nhà nước cổ điển, không phải là nhà nước theo nghĩa
hiện đại do bản chất chỉ là công cụ của cá nhân hay bộ phận cụ thể cai trị.”
(Xem: Schöbener, Allgemeine Staatslehre, München, 2009,
S. 25.)
[14] Uwe Wesel, Geschichte
des Rechts, 3. Aufl., München, 2006, Rn. 32.
[15] Ebel Friedrich/Thielmann Georg, Rechtsgeschichte
(Von der Römischen Antike bis zur Neuzeit), 3. Aufl., Heidelberg, 2003,
Rn. 206 f.
[16] John Locke, Two Treatises of
Government: In the Former, The False Principles and Foundation of Sir Robert
Filmer, And His Followers, are Detected and Overthrown, London, 1690.
[17] John Locke, Sách đã dẫn, Chương XIX,
Nr. 211-243.
[18] Xem: Jean-Jacques Rousseau, Du
contrat social ou Principes du droit politique (Vom Gesellschaftsvertrag
oder Grundsätze des Staatsrechts). Französisch/Deutsch (übersetzt von Eva
Pietzcker und Hans Brockard), Stuttgart, 2010.
[19] Xem bản gốc Tiếng Pháp: Montesquieu (1748),
De L'eprit des lois, V/14, XI/6, XI/7, XI/14, XI/18, XI/20, XII/1. Lưu ý thực
tế ngày nay ngay cả ở Mỹ, một nước theo chủ thuyết "phân quyền cứng
rắn" cũng không tồn tại một sự "phân quyền tuyệt đối" giữa lập
pháp và hành pháp, điều này một phần do quan hệ ràng buộc của hai viện và Chính
phủ trong hoạt động lập pháp, một phần do tính chất quan hệ giữa các đảng phái
không tĩnh mà luôn động. Đưa ra những căn cứ lịch sử và thực tế như vậy để thấy
rằng không có sự phân quyền tuyệt đối, mà chỉ tồn tại sự phân công tương đối,
tồn tại song hành với việc kiểm soát và cân bằng quyền lực.
[20] Montesquieu (1748), De L'eprit
des lois, XI/18, XI/20, XII/1.
[21] Georg Jellinek (1851-1911) là một
nhà luật học người Đức, gốc Áo. Ông nổi tiếng với công trình Lý luận về nhà
nước (die Allgemeine Staatslehre) vào năm 1900 và được coi là cha đẻ của lý
thuyết nhà nước hiện đại. (Xem thêm: Camilla Jellinek, Georg
Jellinek: Ein Lebensbild, in: Georg Jellinek, Ausgewählte Schriften und Reden,
Bd. 1, Neudruck Aalen 1970, S. 5–140).
[22] Từ đó đến nay cách tiếp cận của G.
Jellinek được đông đảo các nhà luật học thừa nhận và phát triển, ví dụ
trong các tác phẩm: Doehring, Allgemeine Staatslehre, eine
systematische Darstellung, 3. Aufl., Heidelberg, 2004; Schöbener, Allgemeine
Staatslehre, München, 2009; Zippelius, Allgemeine Staatslehre,
Politik Wissenschaft, 15. Aufl., München, 2007. Sau này, luật pháp quốc tế
đã cụ thể hóa vấn đề này và chỉ công nhận nhà nước khi: 1) đó là thành viên của
Liên hiệp quốc (thỏa mãn các tiêu chí tại Điều 4 Khoản 1 Hiến chương Liên hiệp
quốc – UN-Charta), 2) có năng lực pháp lý đủ để trở thành bên nguyên hoặc bên
bị trước Tòa án quốc tế (Theo Điều 34 Khoản 1 Luật về Tòa án quốc tế -
IGH-Statut) và 3) cam kết và chịu ràng buộc toàn diện vào luật pháp quốc tế.
[23] Nếu như nhà nước, quốc gia được hiểu theo
nghĩa chính trị - pháp lý, thì dân tộc (nation) được dùng theo
nghĩa là một thực thể văn hóa (a cultural entity) để chỉ một
tổ chức của những người có chung nguồn gốc xuất thân, ngôn ngữ, tôn giáo, tập
quán hoặc lịch sử. Đất nước (Country) được dùng theo nghĩa gốc
là một thực thể địa lý (a geographical entity).
[24] G. Jellinek, Sách đã dẫn, S. 394. Ngày nay, theo tiêu chí tại Điều 1 của Công ước Môn-tê-vi-de-o
năm 1933 thì một thực thể được coi là quốc gia theo pháp luật quốc tế phải có
bốn yếu tố cơ bản đó là dân cư, lãnh thổ, hệ thống chính quyền có chủ quyền và
năng lực tham gia vào quan hệ quốc tế với các thực thể, quốc gia khác. Ngày nay
hầu hết các quốc gia đều là thành viên của Liên hiệp quốc và chịu ràng buộc bởi
các thỏa thuận pháp lý chung, trong đó có đảm bảo của Hiến chương liên hiệp
quốc về quyền tự quyết của nhà nước.
[25] Xem: G. Jellinek, Allgemeine Staatslehre, 3. Aufl. 1914, S. 406. Ba yếu tố đó theo G. Jellinek được
hiểu như sau: Nhà nước trước hết phải có dân cư. Dân cư theo Georg
Jellinek là tập hợp những người có cùng chung một quốc tịch. Ngoài ra,
nhà nước nào cũng có một lãnh thổ giới hạn, trong đó dân cư sinh sống và tổ
chức quyền lực. Bên cạnh đó, nhà nước phải có chủ quyền, chủ quyền ấy thể hiện
ở việc quản lý của nhà nước đối với dân cư theo lãnh thổ, quyền tự quyết của
nhà nước đó trong các vấn đề đối nội và đối ngoại (G. Jellinek, Sách
đã dẫn, S. 394 ff.).
[26] Ngày nay, trên thế giới có rất nhiều cách
hiểu khác nhau về nhà nước, chẳng hạn theo từ điển Oxford, nhà nước
(State) là “a. một cộng đồng chính trị có tổ chức dưới hình thức là một
chính quyền (government); một khối thịnh vượng chung (a commonwealth); một dân
tộc (a nation). b. một cộng đồng theo nghĩa một bộ phận của một nền cộng hòa
liên bang, ví dụ như Hợp chủng quốc Hoa Kỳ” (Xem định nghĩa "state"
trong: Từ điển Concise Oxford English Dictionary (9th ed.).
Oxford University Press. 1995. Nguyên văn Tiếng Anh: “a state is "a. an
organized political community under one government; a commonwealth; a nation; b. such
a community forming part of a federal republich, esp the United States of
America.”). Theo Từ điển luật học ở Đức, nhà nước được hiểu là “một cộng
đồng của các các cá nhân trong một tổ chức chính trị của mình, tổ chức ấy bao
gồm lãnh thổ (ein Staatsgebiet), dân cư (ein Staatsvolk) và hệ thống chính
quyền có chủ quyền (eine Staatsgewalt).” (Xem định nghĩa “Staat” trong: Creifelds, Rechtswörterbuch,
20. Aufl., München 2011. Nguyên văn Tiếng Đức: “In einfachster Form
versteht man darunter eine Personengemeinschaft in ihrer politischen
Organisation, die ein Staatsgebiet, ein Staatsvolk und eine Staatsgewalt
voraussetzt”).
[27] Xem: Hoàng Thị Kim Quế, Một
vài suy nghĩ về những vấn đề đã và đang diễn ra trong đời sống nhà nước, Tạp
chí Dân chủ và pháp luật Số 2 /2003, tr. 6 – 8.
[28] Phân công quyền lực không phải là sự phân
quyền tuyệt đối, mà là phân công tương đối. Ngành lập pháp, hành pháp và tư
pháp về cơ bản là ngang hàng nhau. Phân quyền toàn diện theo chức năng, theo cơ
quan và nhân sự, toàn diện theo cả theo chiều ngang ở trung ương và chiều dọc
giữa trung ương và địa phương, đảm bảo sự kiểm soát và cân bằng quyền
lực.
[29] Doehring, Sách đã dẫn,
Rn. 108.
[30] Việc một nhà nước bị diệt vong là
hoàn toàn có thể xảy ra trong trường hợp một nhà nước hoàn toàn biến mất sau
một trận sóng thần, do cả ba yếu tố dân cư, lãnh thổ, quyền lực đều không còn
(Xem thêm: U. Fastenrath, States, Extinction, in: EPIL,
Bd. 4, 2000, S. 669 ff.).
[31] Doehring, Sách đã dẫn,
Rn. 108.
[32] Schöbener, Sách đã dẫn,
Rn. 64 ff.
[33] Doehring, Sách đã dẫn,
Rn. 136.
[34] Schöbener, Sách đã dẫn,
Rn. 70.
[35] Schöbener, Sách đã dẫn,
Rn. 72.
[36] Doehring, Sách đã dẫn,
Rn. 145 ff.
[37] Schöbener, Sách đã dẫn,
Rn. 73.
[38] Schöbener, Sách đã dẫn,
Rn. 77.
[39] Xem thêm: P.Tzermias, Die Entstehung der
Republik Zypern, Jahrbuch fur oeffentliches Recht, Bd. 9, 1960, S. 245 ff.
[40] Schöbener, Sách đã dẫn,
Rn. 71.
[41] G. Jellinek, Sách đã dẫn,
S. 774 f.
[42] Doehring, Sách đã dẫn,
Rn. 108.
[43] Truy cập website chính thức của tổ chức Liên
hiệp quốc (United Nations) tại địa chỉ: http://www.un.org/en/ , truy cập gần nhất
ngày 7/5/2013.