Để
nghiên cứu, sửa đổi Hiến pháp năm 1992, về kỹ thuật lập hiến, về tư
tưởng Nhà nước pháp quyền, có lẽ, chúng ta không cần phải học hỏi ở đâu
xa, mà học ngay ở Hiến pháp năm 1946.
Hiến pháp 1946 là một bản hiến văn hết sức ngắn gọn, súc tích. Toàn bộ
bản hiến văn chỉ gồm 70 điều. Sự ngắn gọn này đạt được là nhờ vào việc
Hiến pháp chỉ tập trung quy định những vấn đề thuộc phạm vi điều chỉnh
của luật hiến pháp, mà cụ thể là các quyền tự do, dân chủ; các nguyên
tắc và cách thức tổ chức các cơ quan quyền lực Nhà nước. Đây thực sự là
một bản khế ước xã hội về việc phân chia quyền: quyền của các công dân và
quyền của Nhà nước; quyền giữa các cơ quan Nhà nước với nhau.
Nếu Nhà nước pháp quyền là Nhà nước được tổ chức trên những nguyên tắc
và thủ tục sao cho lạm quyền không thể xảy ra và quyền tự do, dân chủ
của nhân dân được bảo vệ, thì Hiến pháp 1946 đã phản ánh đúng tinh thần
đó.
Trước hết, để lạm quyền không thể xảy ra thì Hiến pháp đã được đặt cao
hơn Nhà nước. Về mặt thủ tục, điều này có thể đạt được bằng hai cách: 1.
Hiến pháp phải do Quốc hội lập hiến thông qua; 2. hoặc Hiến pháp phải
do toàn dân thông qua. Hiến pháp 1946 đã thực sự do một Quốc hội lập
hiến thông qua. Theo quy định của Hiến pháp 1946, nước ta không có Quốc
hội mà chỉ có Nghị viện nhân dân với nhiệm kỳ 3 năm. Như vậy, đáng ra
nếu không có chiến tranh, sau khi thông qua Hiến pháp, Quốc hội sẽ tự
giải tán để tổ chức bầu Nghị viện nhân dân. Nghị viện nhân dân không thể
tự mình sửa đổi hiến pháp. Mọi sự sửa đổi, bổ sung đều phải đưa ra toàn
dân phúc quyết (Điều 70).
Hai là, các quyền của người dân được Hiến pháp ghi nhận và bảo đảm. Ví
dụ, Điều 10 quy định: “Công dân Việt Nam có quyền: - Tự do ngôn luận; -
Tự do xuất bản; - Tự do tổ chức và hội họp; - Tự do tín ngưỡng; -Tự do
cư trú, đi lại trong nước và ra nước ngoài”; Điều 12 quy định: “Quyền tư
hữu tài sản của công dân Việt Nam được bảo đảm”. Như chúng ta thấy,
Hiến pháp không đặt vấn đề Nhà nước bảo đảm các quyền đó, mà ghi nhận
các quyền đó như những quyền đương nhiên (do tạo hóa ban cho).
Ba là, việc phân cấp, phân quyền được thực hiện khá mạch lạc, và nhiều
cơ chế kiểm tra và giám sát lẫn nhau đã được thiết kế. Ví dụ, quyền
“kiểm soát và phê bình Chính phủ” của Ban thường vụ Nghị viện (Điều 36);
quyền của “nghị viên không bị truy tố vì lời nói hay biểu quyết trong
Nghị viện” (Điều 40); Thủ tướng có quyền nêu vấn đề tín nhiệm để Nghị
viện biểu quyết (Điều 54)...
Việc phân cấp, phân quyền giữa chính quyền Trung ương và chính quyền địa
phương cũng rất rõ. Ví dụ, Nghị viện nhân dân chỉ quyết định những vấn
đề “chung cho toàn quốc” (Điều 23). Hội đồng nhân dân được quyền quyết
định “những vấn đề thuộc địa phương mình” (Điều 59).
Cuối cùng, vai trò độc lập xét xử của tòa án được bảo đảm. Điều này đạt
được nhờ hai cách: Một là, các tòa được thiết kế không theo cấp hành
chính mà theo cấp xét xử (Điều 63); Hai là, xác lập quy phạm ở tầm hiến
định là khi xét xử, thẩm phán “chỉ tuân theo pháp luật, các cơ quan khác
không được can thiệp” (Điều 69).
Hiến pháp năm 1946 là di sản to lớn về tư tưởng và văn hóa lập hiến của
dân tộc. Di sản này sẽ mãi soi sáng trí óc và con tim của chúng ta trong
quá trình phấn đấu xây dựng Nhà nước pháp quyền và xã hội công bằng,
dân chủ, văn minh.