TS. Nguyễn Minh Tuấn
Nguồn: Tuần Việt Nam, đăng ngày 27/6/2013, truy cập đường link gốc tại đây
Từ những đau thương và những trải nghiệm từ lịch sử, người Đức đã nhận thức được sâu sắc lý do vì sao cần phải bảo vệ nhân phẩm.
Sau
chiến tranh thế giới thứ hai, xây dựng lại đất nước từ trong hoang
tàn, đổ nát, có lẽ nhân dân Đức là những người thấu hiểu hơn ai hết sự
bạo tàn của chiến tranh, sự phi nhân tính của chủ nghĩa phát xít, cũng
như hệ quả đau thương mà nó gây ra. Họ cũng là những người thấu hiểu
việc bảo vệ phẩm giá của con người quan trọng và cần thiết như thế nào.
Qui
định đầu tiên, trang trọng nhất của Luật cơ bản (Hiến pháp) của Đức là
qui định về nhân phẩm: “Nhân phẩm là bất khả xâm phạm” (Điều 1 Khoản
1).[1] Đặc biệt, thông qua qui định của Điều 79 Khoản 3 Hiến pháp, vấn
đề nhân phẩm là bất khả xâm phạm tại Điều 1 Hiến pháp này đã được vĩnh
viễn hóa, trở thành một trong những giá trị cao nhất của Hiến pháp Đức.
Theo đó, trong mọi trường hợp, qui định “nhân phẩm” tại Điều 1 là không
thể sửa đổi.
Chỉ có một câu duy nhất: “Nhân phẩm là bất khả xâm
phạm”, nhưng qui định này đã phản ánh đầy đủ tính nhân bản, tính dân tộc
và tính thời đại của Hiến pháp Đức. Cũng chỉ bằng một câu duy nhất ấy,
người ta có thể thấy được người Đức trân trọng nhất điều gì, đồng thời
cũng cho thấy giá trị mà họ muốn hướng tới, muốn bảo vệ là gì.
Theo
Giáo sư Luật Hiến pháp Günter Dürig, nhân phẩm qui định ở Điều 1 Khoản 1
Hiến pháp Đức không phải là một quyền cơ bản đơn thuần, mà là giá trị
khách quan, cao nhất của Hiến pháp, là qui tắc ràng buộc toàn bộ mục
đích, nhiệm vụ và hành vi của công quyền. Nhân phẩm bị xâm phạm, khi cơ
quan nhà nước hoặc người có thẩm quyền hành xử với con người như một vật
thể đơn thuần (bloßes Objekt).[2] Những hành vi của công quyền như bắt
người làm nô lệ, tra tấn, phân biệt đối xử, làm nhục, từ chối cung cấp
những điều kiện sống tối thiểu của một con người…đều là những hành vi
xâm phạm nhân phẩm và vi hiến.
Ở Đức, không một lý do nào có thể
biện minh cho việc chà đạp lên phẩm giá của con người, ở bất kỳ
hình thức nào. Tất cả mọi người đều được bảo vệ nhân phẩm, không phân
biệt người đó là ai, trẻ em hay người trưởng thành, người bị tâm thần
hay tội phạm, thậm chí không phụ thuộc vào việc chủ thể đó có nhận thức
được về nhân phẩm của mình và nhận thức chúng cần phải được bảo vệ hay
không.[3]
Không
chỉ việc tử hình bị coi là vi phạm nhân phẩm con người[4], mà ngay cả
hình phạt tù chung thân (die lebenslange Freiheitsstrafe) không chú ý
đến khả năng hoàn lương của con người cũng bị coi là vi phạm nhân phẩm ở
Đức. Tòa án hiến pháp liên bang Đức vào năm 1977 đã ra phán quyết rằng
áp dụng hình phạt tù chung thân mà không tạo khả năng giảm án là vi
hiến, vì xâm phạm nhân phẩm của con người. Ngày nay ở Đức, một người tù
thụ án tù chung thân có thể được giảm án, nếu cải tạo tốt, nhưng sớm
nhất là không dưới 15 năm tù giam.[5]
Một ví dụ khác: Xuất phát từ
nhu cầu thực tế phòng chống nạn khủng bố, đặc biệt là từ vụ việc ngày
11/9 ở Mỹ năm 2001, vào năm 2005, Nghị viện liên bang Đức đã thông qua
Luật an toàn hàng không. Theo Điều 14 Khoản 3 của đạo luật này, trong
những trường hợp nghiêm trọng, khẩn cấp, cơ quan an ninh quốc gia được
phép bắn vào máy bay dân dụng mà kẻ khủng bố sử dụng làm công cụ khủng
bố. Tòa án hiến pháp liên bang trong phán quyết ngày 15/2/2006 đã cho
rằng: Qui định này cho phép công quyền coi việc giết người vô tội là
công cụ để cứu người khác. Việc giết hại một số ít người vô tội để cứu
một số lượng người lớn hơn không thể được hợp pháp hóa, đó chẳng khác gì
việc coi con người là một “vật thể đơn thuần”. Qui định này là vi hiến,
do xâm phạm đến nhân phẩm và quyền được sống của con người.[6]
Cũng
liên quan đến vấn đề nhân phẩm của con người, vào năm 1979, ở Đức có
một vụ án như sau: Sau khi tiến hành phẫu thuật chuyển giới, B đã đệ đơn
đề nghị cơ quan hộ tịch thành phố X tiến hành công nhận việc thay đổi
giới tính từ nam sang nữ cho mình, nhưng đã bị cơ quan này từ chối yêu
cầu của B. Thời điểm đó ở Đức cũng chưa có Luật cho phép việc chuyển
giới. Quan điểm của Tòa án tối cao liên bang là vì chưa có luật nên việc
cơ quan hộ tịch từ chối là đúng, nhưng Tòa án Hiến pháp liên bang Đức
lại phản bác và kết luận cho rằng: Nhân phẩm con người là giá trị cao
nhất, mọi người đều được quyền yêu cầu công nhận giới tính thật của
mình, đó thuộc về nhân phẩm con người. Việc cơ quan hộ tịch từ chối đơn
đề nghị của B là hành vi vi hiến.[7] Sau đó khoảng một năm, vào ngày
10/9/1980, đạo luật về chuyển giới (Transsexuellengesetz) đã được Nghị
viện thông qua, chính thức hợp pháp hóa về phương diện luật việc chuyển
đổi giới tính.
Ngày nay, nhiều vấn đề xoay quanh nhân phẩm của con
người vẫn gây rất nhiều tranh cãi ở Đức. Chẳng hạn, vấn đề: có nên cho
phép việc nạo phá thai hay không. Đạo luật cho phép nạo phá thai đầu
tiên của Đức năm 1975 đã bị tuyên vi hiến, do Tòa án tuyên bố rằng bào
thai đã thành thai cũng thuộc đối tượng bảo vệ của nhân phẩm. Theo Bộ
luật hình sự Đức hiện hành, việc nạo phá thai là bất hợp pháp[8], trừ
khi có những bằng chứng cụ thể, được qui định tại Điều 219 Khoản 1 Bộ
luật này.
Vấn đề bác sĩ có nên công bố cho người mẹ mang thai về
những dị tật bẩm sinh của bào thai hay không cũng là vấn đề có những
quan điểm trái ngược nhau. Quan điểm đồng tình thì cho rằng việc thông
báo này liên quan trực tiếp đến lợi ích của xã hội, của cha mẹ và của
chính đứa trẻ. Cha mẹ có quyền được biết về những dị tật của bào thai,
để sớm đưa ra quyết định. Những trẻ em dị tật ra đời nhiều khi là khổ
đau cho chính trẻ em và là gánh nặng cho xã hội.[9]
Quan điểm
phản đối cho rằng: Không có gì cao hơn nhân phẩm của con người. Bào thai
đã thành thai cũng là đối tượng cần phải được bảo vệ về nhân phẩm.
Quyền được sống của một đứa trẻ bị dị tật cũng không kém giá trị hơn
quyền được sống của một đứa trẻ không bị dị tật. Việc thông báo về dị
tật của bào thai là vi phạm y đức và sẽ có tác động xấu đối với xã hội,
làm gia tăng tỉ lệ nạo phá thai. Hay nói cách khác, không có bất kỳ ai
có quyền tước đi quyền được sống của một đứa trẻ, cho dù đứa trẻ đó bị
dị tật.[10]
Cũng liên quan đến vấn đề này, hiện nay việc có nên
cho phép nghiên cứu tế bào gốc (Stammzellenforschung) hay không ở Đức
cũng có nhiều ý kiến khác nhau. Việc nghiên cứu tế bào gốc, cấy ghép tế
bào thai nhi vẫn bị cấm theo Điều 2, Điều 8 Luật bảo vệ tế bào gốc
(ESchG - Gesetz zum Schutz von Embryonen). Từ góc độ luật hiến pháp, bào
thai cũng là đối tượng cần phải được bảo vệ về nhân phẩm theo Điều 1
Khoản 1 Hiến pháp.
Tuy nhiên cũng có nhiều ý kiến phản đối qui
định này. Theo kết quả nghiên cứu của khoa học hiện đại: Tế bào thần
kinh là loại tế bào khi đã chết đi thì sẽ không có khả năng phục hồi và
tái sinh. Tuy nhiên, nhiều nhà khoa học khẳng định rằng việc nghiên cứu,
cấy ghép tế bào bào thai, tế bào gốc và liệu pháp gen để thay thế các
tế bào thần kinh đã chết sẽ là một hướng đi nhiều hứa hẹn để giải quyết
vấn đề này. Việc ngăn cấm nghiên cứu tế bào gốc, hay cấy ghép tế bào
thai nhi là vi phạm quyền tự do trong nghiên cứu khoa học.[11]
Vấn
đề nhân phẩm ngày nay ở Đức không những được tranh luận ở tất cả các
góc độ từ triết học, sinh học, đạo đức học, y học, luật học…mà còn được
hiểu và hiện thực hóa ở một phạm vi rất rộng. Theo phán quyết ngày
9/2/2010, Tòa án hiến pháp liên bang đã khẳng định rằng Luật trợ cấp xã
hội (Hartz IV Gesetz) ra đời là bắt nguồn từ nguyên tắc bảo vệ nhân phẩm
tại Điều 1 Khoản 1 Hiến pháp và nguyên tắc nhà nước xã hội
(Sozialstaatprinzip).[12] Đạo luật này qui định rằng nhà nước có trách
nhiệm đảm bảo một mức sống tối thiểu đối với tất cả mọi người, đồng thời
qui định cụ thể những đối tượng nào, trường hợp nào thì được hưởng trợ
cấp xã hội.
Theo Tòa án hiến pháp liên bang, nhân phẩm sẽ không
có giá trị ràng buộc trách nhiệm của nhà nước, nếu như điều kiện sống
tối thiểu của một con người cụ thể không được đảm bảo. Chế độ trợ cấp xã
hội ở Đức hiện nay được đánh giá là rất tiến bộ, chế độ này ra đời xuất
phát từ lý do căn bản là nhằm bảo vệ nhân phẩm con người, tạo sự bình
đẳng về cơ hội và điều kiện phát triển tốt nhất cho con người.
Tóm
lại, từ những đau thương và những trải nghiệm từ lịch sử, người Đức đã
nhận thức được sâu sắc lý do vì sao cần phải bảo vệ nhân phẩm. Nhân phẩm
vừa là điểm khởi đầu, nhưng cũng vừa là mục đích cuối cùng của Hiến
pháp Đức. Tất cả các qui định khác trong Hiến pháp từ vấn đề các quyền
cơ bản cụ thể, đến cơ chế phân công quyền lực, bảo vệ Hiến pháp…suy đến
cùng cũng vì con người và bảo vệ phẩm giá của con người. Câu chuyện nhân
phẩm là vấn đề cũ, nhưng vẫn sẽ luôn mới, vừa là câu chuyện của hôm
qua, nhưng cũng là câu chuyện của hôm nay và ngày mai, vừa là vấn đề
lịch sử, văn hóa, sinh học, nhưng cũng vừa là vấn đề mang tính thời đại
của Hiến pháp.
----------------------
Chú thích:
[1]
Điều 1 Khoản 1 Câu 1 Hiến pháp Đức qui định: “Nhân phẩm là bất khả xâm
phạm”. Tòa án Hiến pháp liên bang Đức coi nhân phẩm là giá trị cao nhất
của Hiến pháp Đức, không có bất kỳ giá trị nào cao hơn nhân phẩm. Xem:
BverfGE 32, 98 (108); 50, 166 (175); 54, 341 (357).
[2] Günter
Dürig, in Theodor Maunz/Ders.: Grundgesetz, 1958, Art. 1 Abs. 1 Rn. 28,
34. Sau này định nghĩa về nhân phẩm của Dürig đã được Tòa án hiến pháp
liên bang Đức thừa nhận trở thành định nghĩa có tính chuẩn mực ở Đức.
Xem thêm: BVerfGE 27, 1 (6); 28, 386 (391); 45, 187 (228).
[3] BverfGE 39, 1 (41 f.).
[4] Theo Điều 102 Hiến pháp Đức, hình phạt tử hình đã bị bãi bỏ.
[5] Xem Điều 57 a, Bộ luật Hình sự Đức.
[6] BverfGE 357, 05 (05 f.).
[7] BverfGE 49, 286, (301 f).
[8] Xem các Điều từ Điều 218 Bộ luật hình sự Đức.
[9] Xem thêm: Manssen, Staatsrecht II – Grundrechte, 9. Aufl., 2012, Rn. 220.
[10] Đây cũng là quan điểm chính thức của Tòa án hiến pháp liên bang Đức. Xem: BVerfGE 88, 203 (296).
[11] Xem thêm: Manssen, Staatsrecht II – Grundrechte, 9. Aufl., 2012, Rn. 221 f.
[12] BverfGE 125, 175 ff.