BÀN VỀ ÁN LỆ VÀ VIỆC ÁP DỤNG ÁN LỆ Ở VIỆT NAM
Nguyễn Minh Tuấn
Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, Số 1 (449), tháng 1/2022
Tóm tắt: Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, quá trình chuyển đổi số, yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền đã và đang tác động mạnh mẽ tới mọi mặt của đời sống xã hội, trong đó có vấn đề tư duy, nhận thức trong xây dựng và phát triển án lệ. Mặc dù thời gian vừa qua, nhiều án lệ đã được công bố, nhưng việc nhận thức về án lệ, cũng như việc áp dụng án lệ trên thực tế ở nước ta còn rất nhiều bất cập. Trong phạm vi bài viết này, tác giả phân tích, làm rõ án lệ và vai trò của án lệ trên thực tếở Việt Nam; những bất cập trong thực tiễn áp dụng án lệ ở Việt Nam và đề xuất giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả áp dụng án lệ ở Việt Nam.
1. Án lệ và vai trò của án lệ trên thực tế ở Việt Nam
Theo quy định của pháp luật dân sự
Việt Nam, trong trường hợp không có văn bản quy phạm pháp luật, không có
tập quán và không thể áp dụng tương tự pháp luật thì áp dụng các nguyên
tắc cơ bản của pháp luật dân sự, án lệ, lẽ công bằng. Cụ thể, Điều 6 Bộ luật Dân sự (BLDS) năm 2015 quy định:
“1. Trường hợp phát sinh quan hệ
thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp luật dân sự mà các bên không có thỏa
thuận, pháp luật không có quy định và không có tập quán được áp dụng thì
áp dụng quy định của pháp luật điều chỉnh quan hệ dân sự tương tự.
2. Trường hợp không thể áp dụng
tương tự pháp luật theo quy định tại khoản 1 Điều này thì áp dụng các
nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự quy định tại Điều 3 của Bộ luật
này, án lệ, lẽ công bằng”.
Điều 1 Nghị quyết số 03/NQ-HĐTP ngày
28/10/2015 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao (TANDTC) về
quy trình lựa chọn, công bố và áp dụng án lệ quy định: “Án lệ là những lập luận, phán quyết trong bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án
về một vụ việc cụ thể được Hội đồng Thẩm phán TANDTC lựa chọn và được
Chánh án TANDTC công bố là án lệ để các Tòa án nghiên cứu, áp dụng trong
xét xử”.
Như vậy, ở Việt Nam, án lệ được vận
dụng để giải quyết vụ việc dân sự khi không có văn bản pháp luật cũng
như các loại nguồn khác điều chỉnh. Bên cạnh đó, án lệ ở Việt Nam không
phải là toàn bộ bản án, quyết định của Toà án mà chỉ là “những lập luận, phán quyết trong bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án”.
Đó là những nội dung trong bản án quyết định của Toà án chứa đựng những
lập luận để giải thích những vấn đề, sự kiện pháp lý, chỉ ra nguyên tắc
hoặc quy phạm pháp luật cần áp dụng hoặc thể hiện lẽ công bằng đối với
những vấn đề chưa có điều luật quy định cụ thể. Theo tiếng La Tinh tương
ứng mỗi án lệ có hai phần là “Ratio decidendi” (phần lý do để đưa ra
quyết định, phần có ý nghĩa bắt buộc) và “Obiter dicta” (phần giải thích
thêm, phần có ý nghĩa tham khảo). Điều này có nghĩa là, khi áp dụng án
lệ, thẩm phán cần tuân thủ trước hết là phần “Ratio decidendi” và sau đó
là là phần “Obiter dicta”, chứ không phải là toàn bộ bản án, quyết định[1].
Ở Việt Nam, Hội đồng Thẩm phán TANDTC
ban hành Nghị quyết để hướng dẫn việc áp dụng thống nhất pháp luật trong
xét xử thông qua tổng kết việc áp dụng pháp luật, giám đốc việc xét xử.
Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán TANDTC là một văn bản quy phạm pháp
luật. Ví dụ như Nghị quyết số 04/NQ-HĐTP về quy trình lựa chọn, công bố
và áp dụng án lệ của Hội đồng Thẩm phán TANDTC ngày 18/6/2019 (Nghị
quyết số 04).
Theo quy định của Điều 2 Nghị quyết số 04, án lệ được lựa chọn phải đáp ứng các tiêu chí sau đây: Một là,
có giá trị làm rõ quy định của pháp luật còn có cách hiểu khác nhau,
phân tích, giải thích các vấn đề, sự kiện pháp lý và chỉ ra nguyên tắc,
đường lối xử lý, quy phạm pháp luật cần áp dụng trong một vụ việc cụ thể
hoặc thể hiện lẽ công bằng đối với những vấn đề chưa có điều luật quy
định cụ thể. Hai là, có tính chuẩn mực. Ba là, có giá trị
hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật trong xét xử. Việc thừa nhận án
lệ, đưa ra các tiêu chí lựa chọn án lệ là phù hợp với quy định của Điều 4
Bộ luật Tố tụng dân sự (BLTTDS) năm 2015 về việc Toà án không được từ
chối giải quyết vụ việc dân sự vì lý do chưa có điều luật để áp dụng.
Theo quy định của Điều 8 Nghị quyết số
04, án lệ được nghiên cứu, áp dụng trong xét xử sau 30 ngày kể từ ngày
công bố; khi xét xử, Thẩm phán, Hội thẩm phải nghiên cứu, áp dụng án lệ,
bảo đảm những vụ việc có tình huống pháp lý tương tự thì phải được giải
quyết như nhau; trường hợp vụ việc có tình huống pháp lý tương tự nhưng
Tòa án không áp dụng án lệ thì phải nêu rõ lý do trong bản án, quyết
định của Tòa án; trường hợp Tòa án áp dụng án lệ để giải quyết vụ việc
thì số, tên án lệ, tình huống pháp lý, giải pháp pháp lý trong án lệ và
tình huống pháp lý của vụ việc đang được giải quyết phải được viện dẫn,
phân tích trong phần “Nhận định của Tòa án”; tùy từng trường hợp cụ thể
có thể trích dẫn toàn bộ hoặc một phần nội dung của án lệ để làm rõ quan
điểm của Tòa án trong việc xét xử, giải quyết vụ việc tương tự. Chánh
án Tòa án nhân dân tối cao ban hành quyết định công bố án lệ đã được Hội
đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua.
Ở Việt Nam, bản án, quyết định của bất
kỳ Toà án nào cũng có thể trở thành án lệ khi nó thoả mãn được tất cả
những tiêu chí cũng như được lựa chọn, công bố theo đúng trình tự, thủ
tục luật định. Sự phát triển án lệ đóng vai trò bổ trợ chứ không xâm
phạm hoặc thay thế văn bản quy phạm pháp luật.
Việc áp dụng án lệ trong giải quyết các vụ việc dân sự trong thời gian vừa qua cho thấy những ưu điểm cơ bản như sau:
Thứ nhất, án lệ chứa
đựng quy tắc pháp lý mới, giải pháp pháp lý mới, giải thích những điểm
chưa rõ trong các quy phạm pháp luật giúp khắc phục những nhược điểm
trong quy định của các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành. Thực tế cho
thấy, luật thành văn dù được xây dựng cẩn thận và kỹ lưỡng đến đâu cũng
không thể dự đoán được hết những tình huống sẽ xảy ra trong tương lai
và luôn có những khoảng trống, lỗ hổng, đặc biệt trong lĩnh vực dân sự.
Vì vậy, án lệ góp phần bổ sung giúp cho luật thành văn gắn liền với thực
tiễn.
Thứ hai, vai trò của án lệ trong hoạt động phát triển pháp luật. Án
lệ là sản phẩm của hoạt động xét xử, do toà án tạo lập trong quá trình
giải quyết các vụ việc cụ thể, được Nhà nước thừa nhận như khuôn mẫu để
giải quyết những vụ việc tương tự về sau. Việc thừa nhận và áp dụng án
lệ góp phần lấp “những lỗ hổng” của pháp luật và qua đó có sự phát triển
của pháp luật.
Thứ ba,án
lệ góp phần bảo đảm thực hiện, bảo vệ quyền con người, quyền công dânvà
góp phần xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam. Qua hoạt động lấp
“những lỗ hổng” của pháp luật, việc áp dụng án lệ trên thực tế góp phần
bảo đảm thực hiện, bảo vệ quyền con người, quyền công dân và góp phần
xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam.Công dân sẽ không phải gánh chịu
bất lợi hay lo sợ vì không có quy phạm pháp luật điều chỉnh khi tham gia
vào quan hệ dân sự hợp pháp. Xây dựng án lệ còn là hoạt động nhằm hoàn
thiện hệ thống pháp luật Việt Nam, mà hoàn thiện hệ thống pháp luật đang
là một trong những tiêu chí quan trọng cho việc hướng tới xây dựng
thành công Nhà nước pháp quyền Việt Nam. Đây là đóng góp to lớn trong
việc xây dựng một nhà nước pháp quyền với quan điểm tất cả vì con người
và hướng tới con người.
2. Những bất cập trong thực tiễn áp dụng án lệ ở Việt Nam hiện nay
Qua một thời gian thực hiện, hiện nay
vẫn tồn tại những bất cập trong nhận thức về án lệ và những vướng mắc
trong thực tiễn áp dụng án lệ ở Việt Nam như sau:
Thứ nhất, số lượng án lệ ở Việt Nam chưa nhiều, chưa đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn xét xử. Hiện nay, chúng ta chỉ có 43 án lệ đã được công bố[2], con số này còn quá khiêm tốn so với số lượng bản án, quyết định hàng năm của TAND các cấp đã công bố (763.343 bản án)[3].
Số lượng án lệ quá ít là khó khăn không nhỏ trong việc giải quyết vụ án
dân sự trong trường hợp chưa có điều luật để áp dụng. Không những vậy,
số lượng án lệ được công bố cũng chỉ tập trung vào lĩnh vực luật dân sự
và luật kinh doanh, thương mại chiếm đến 35 án lệ, các lĩnh vực pháp
luật khác chiếm số lượng rất ít, cụ thể lĩnh vực luật hình sự chiếm 6 án
lệ, lĩnh vực luật hành chính chỉ có 2 án lệ. Do là chế định mới, một số
Tòa án chưa quan tâm đúng mức đến việc rà soát, phát hiện các bản án,
quyết định có hiệu lực pháp luật để đề xuất phát triển thành án lệ nên
còn chậm trễ trong việc gửi báo cáo kết quả rà soát, phát hiện các bản
án, quyết định có hiệu lực pháp luật để đề xuất phát triển thành án lệ
về Tòa án nhân dân tối cao.
Thứ hai, cách thức viện dẫn án lệ trong các bản án, quyết định của Toà án chưa được thực hiện thống nhất trong phạm vi cả nước.
Đa số các thẩm phán viện dẫn án lệ trong phần nhận định của bản án,
quyết định. Tuy nhiên, một số Thẩm phán còn viện dẫn án lệ trong phần
quyết định của bản án, quyết định. Có tình trạng thẩm phán giải quyết vụ
án theo đường lối xét xử trong án lệ nhưng không viện dẫn đến án lệ
trong bản án, quyết định của mình[4].
Thứ ba, hướng dẫn tại Điều 8 Nghị quyết số 04/2019/NQ-HĐTP vẫn còn chưa rõ ràng, dẫn đến nhiều khó khăn trong việc áp dụng.
Khoản 2 Điều 8 hướng dẫn: “Khi xét xử, Thẩm phán, Hội thẩm phải nghiên
cứu, áp dụng án lệ, bảo đảm những vụ việc có tình huống pháp lý tương tự
thì phải được giải quyết như nhau”. Điều khoản này không có hướng dẫn
cụ thể thuật ngữ “tình huống pháp lý tương tự” được hiểu ra sao? Vì chưa
có sự hướng dẫn rõ ràng nên các thẩm phán còn lúng túng khi vận dụng.
Việc áp dụng “tình huống pháp lý tương tự” còn mang nhiều ý chí chủ quan
của thẩm phán. Cũng tại khoản 2 Điều 8 quy định về “Trường hợp vụ việc
có tình huống pháp lý tương tự nhưng Tòa án không áp dụng án lệ thì phải
nêu rõ lý do trong bản án, quyết định của Tòa án” còn chung chung, chưa
thể hiện rõ trường hợp nào thì phải áp dụng án lệ, trường hợp nào thì
không áp dụng án lệ; trường hợp Thẩm phán đã viện dẫn cụ thể các quy
định của pháp luật là căn cứ để giải quyết vụ án thì có nhất thiết phải
áp dụng, viện dẫn án lệ không.
Thứ tư, hiệu lực pháp lý của án lệ còn thấp so với các loại nguồn pháp luật khác gây ra khó khăn trong áp dụng án lệ.
Về nguyên tắc, án lệ được áp dụng khi không có văn bản quy phạm pháp
luật, không có tập quán và không thể áp dụng tương tự pháp luật. Tuy
nhiên, theo Nghị quyết số 04/2019/NQ-HĐTP, Thẩm phán, Hội thẩm phải
nghiên cứu, áp dụng án lệ để giải quyết các vụ việc tương tự. Trường hợp
không áp dụng án lệ thì phải nêu rõ lý do trong bản án, quyết định của
Tòa án. Như vậy, trường hợp vụ án vừa có tập quán, vừa có án lệ thì Hội
đồng xét xử có bắt buộc phải viện dẫn án lệ hay không? Mặt khác, xét thứ
tự thì án lệ được xếp sau áp dụng tương tự pháp luật nhưng khi một vụ
việc đã có án lệ nghĩa là đã có giải pháp pháp lý rõ ràng thì có cần
thiết phải áp dụng tương tự pháp luật hay không? Nếu áp dụng tương tự
pháp luật thì án lệ sẽ mất đi vai trò và giá trị của nó. Đây cũng là khó
khăn trong thực tiễn áp dụng pháp luật[5].
Thứ năm, Toà án hiện nay vẫn chưa có thẩm quyền giải thích pháp luật một cách chính thức.
Hiến pháp chưa trao quyền chính thức cho Tòa án quyền giải thích pháp
luật. Thực tế, khi áp dụng pháp luật, sau khi lựa chọn được quy phạm
pháp luật, Tòa án với tính chất là chủ thể tiến hành áp dụng pháp luật
phải phân tích, giải thích nội dung, ý nghĩa của chúng để chứng tỏ rằng
quy phạm được lựa chọn là phù hợp nhất, đồng thời nội dung quyết định áp
dụng pháp luật do mình ban hành là hoàn toàn phù hợp với nội dung, tư
tưởng, tinh thần của quy phạm pháp luật được lựa chọn. Đây chính là sự
giải thích chính thức. Tuy nhiên, lời giải thích này chỉ mang tính cụ
thể, nghĩa là lời giải thích chỉ có ý nghĩa trong chính vụ việc đó, nó
không được áp dụng để giải quyết cho vụ việc khác.
3. Một số giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả áp dụng án lệ ở Việt Nam
Xuất phát từ những bất cập trong nhận
thức về án lệ và vướng mắc trong thực tiễn áp dụng về án lệ trong thời
gian vừa qua, để nâng cao chất lượng, hiệu quả áp dụng án lệ ở Việt Nam
đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam và hội nhập quốc
tế, chúng ta cần thực hiện đồng bộ những giải pháp sau:
Thứ nhất, trao quyền nhiều hơn cho Tòa án.
Tư pháp trong Nhà nước pháp quyền phải
mạnh, phải độc lập. Muốn vậy, Tòa án phải được trao quyền nhiều hơn.
Chúng tôi cho rằng trong tương lai cần cụ thể hóa Điều 119 về cơ chế bảo
hiến, trao thẩm quyền này cho Tòa án, đồng thời trao quyền giải thích
Hiến pháp và pháp luật chính thức cho Tòa án. Tòa án có mạnh, có độc lập
thì mới có thể bảo vệ đươc quyền con người, quyền công dân. Tiếp đó,
cần cụ thể hóa những điều kiện, cách thức, quy trình, thủ tục giải thích
Hiến pháp và pháp luật của Tòa án. Những thẩm quyền này được trao cho
Tòa án, cùng với thẩm quyền xây dựng và áp dụng án lệ sẽ thành thế kiềng
ba chân, tạo ra một nền tư pháp vững mạnh.
Thứ hai, án lệ cần có hiệu lực pháp lý cao hơn tập quán.
Những án lệ thời gian qua được công bố
cho thấy, nhiều giá trị tích cực, trong đó quan trọng nhất là tính cụ
thể, rõ ràng, dễ áp dụng. Án lệ có nhiều ưu điểm hơn so với tập quán.
Tập quán thường thiếu cụ thể và khó xác định hơn so với án lệ, ngoài ra
khi áp dụng tập quán chủ thể áp dụng phải có nghĩa vụ chứng minh sự tồn
tại thực sự của tập quán đó. Việc chứng minh này thực tế không dễ dàng.
Do vậy, chúng tôi đề xuất cần sửa đổi Điều 5, Điều 6 của Bộ luật Dân sự
năm 2015 theo hướng án lệ được ưu tiên áp dụng trước các loại nguồn khác
như tập quán và áp dụng pháp luật tương tự.
Thứ ba, cần thống nhất cách hiểu về “tình huống pháp lý tương tự”.
Việc xác định tình huống pháp lý tương
tự cần được áp dụng một cách cụ thể, chặt chẽ và có sự hướng dẫn cần
thiết. Về điều này, chúng ta có thể học hỏi theo việc áp dụng án lệ của
Anh. Nguyên tắc xương sống cho sự tồn tại và phát triển của án lệ ở Anh
là Nguyên tắc tiền lệ pháp (stare decisis), có nghĩa là: Hai vụ việc với
các tình tiết chính tương tự như nhau sẽ được xét xử như nhau. Đê áp
dụng được nguyên tắc này, thẩm phán phải xác định được đâu là tình tiết
chính và thế nào là “tương tự”. Để giải quyết được vấn đề này, Tòa án
cần có sự giải thích hợp lý bằng những văn bản có giá trị nguyên tắc, là
kim chỉ nam cho hoạt động áp dụng chung của thẩm phán.
Thứ tư, việc xây dựng án lệ cần đảm bảo có tính hệ thống.
Trong những năm gần đây, án lệ nhận
được sự quan tâm không nhỏ, do vậy số lượng án lệ cũng được tăng lên
nhanh. Qua quá trình xét xử, số lượng án lệ sẽ ngày càng gia tăng, để dễ
dàng cho việc tìm kiếm thì ngay từ đầu phải có sự sắp xếp và lưu trữ
một cách khoa học các bản án. Có rất nhiều cách để hệ thống lại các bản
án lệ lưu trữ theo thời gian xét xử, theo cấp toà, theo loại vụ việc.
Tuy nhiên, tác giả đề xuất việc xây dựng án lệ nên phát triển theo giá
trị của án lệ thành: Án lệ để áp dụng, án lệ để giải thích luật; ngoài
ra còn có thể xây dựng các bản án mẫu để thẩm phán có thể tham khảo.
Giá trị đầu tiên của án lệ là, để áp
dụng, lẽ dĩ nhiên, án lệ bổ sung những khiếm khuyết của pháp luật, án lệ
có đóng góp rất lớn vào việc tạo nguồn quy phạm cho pháp luật. Trong
thực tiễn xét xử hàng ngày, Thẩm phán “gợi ý” cho nhà làm luật về những
khiếm khuyết hay những điểm chưa phù hợp của pháp luật, từ đó đề suất
các quy phạm mới cần ban hành. Trong xây dựng hệ thống án lệ để áp dụng,
án lệ đáp ứng được vai trò tất yếu của mình, đảm bảo đường lối của
TANDTC theo Điều 8 Nghị quyết số 04/2019/NQ-HĐTP về quy trình lựa chọn,
công bố và áp dụng án lệ: khi xét xử thẩm phán, hội thẩm phải nghiên
cứu, áp dụng án lệ để giải quyết các vụ việc tương tự, những vụ việc có tình huống pháp lý tương tự thì phải được giải quyết như nhau.
Giá trị thứ hai của án lệ là dùng để
giải thích pháp luật. Pháp luật được sinh ra để điều chỉnh hoạt động của
con người trong mọi mặt của đời sống, nhưng sự phát triển của kinh tế -
chính trị - xã hội hết sức đa dạng và pháp luật luôn lỗi thời hơn sự
phát triển này một bậc. Do đó, những trường hợp pháp luật quy định không
rõ ràng, pháp luật quy định một cách vô lý hay đã bị lạc hậu so với
tình hình thực tế mà nhà lập pháp chưa có điều kiện hay vì một lý do nào
đó chưa thay thế bằng một quy định mới thì cần có những cách giải thích
luật một cách hợp lý. Đây là vai trò giải thích luật của Tòa án thông
qua việc xây dựng án lệ.
Ngoài ra, chúng ta có thể xây dựng các
bản án mẫu. Án mẫu là những bản án được xây dựng trên những cơ sở pháp
luật hết sức chặt chẽ mà trong những tình huống như vậy, khó có thể đưa
ra phán quyết khác được. Do đó, khi có những tình huống tương tự bắt
buộc tòa án phải đưa ra các phán quyết tương tự như án mẫu. Một điểm cần
lưu ý là, khi bản án được coi là án mẫu thì Toà án tối cao sẽ chuyển
tải đến các Toà án cấp dưới để làm nguồn tham khảo và các Toà án cấp
dưới coi đó là những “khuôn mẫu” để xét xử những vụ án tương tự.
Thứ năm, nâng cao chất lượng xét xử
của Tòa án thông qua việc tích cực công bố các kết quả nghiên cứu về án
lệ và đào tạo thẩm phán.
Lâu nay ta chỉ quan tâm một chiều đến
việc đưa án lệ vào giảng dạy trong các cơ sở đào tạo. Điều này đúng,
nhưng chưa đủ. Chúng tôi cho rằng, ngoài việc đưa án lệ vào giảng dạy
trong các cơ sở đào tạo, thì chính những cơ sở đào tạo, cơ sở nghiên cứu
cần tích cực đưa các kết quả nghiên cứu của mình về án lệ để phục vụ
cho ngành Tòa án. Những nghiên cứu về kinh nghiệm nước ngoài, những bình
luận về các án lệ đã công bố, những nghiên cứu về định hướng, chiến
lược phát triển ngành Tòa án v.v… sẽ góp phần không nhỏ trong việc nâng
cao chất lượng hoạt động xét xử, giúp hoạt động xét xử đảm bảo tính khoa
học, tính thực tiễn, cũng như giúp hoạt động đào tạo không xa rời thực
tiễn, thoát ly thực tiễn.
Thẩm phán giữ vai trò hết sức quan
trọng, đòi hỏi các thẩm phán phải là những người có năng lực chuyên môn
vững vàng, có kinh nghiệm với khả năng sáng tạo, độc lập, dám chịu trách
nhiệm. Để có được những án lệ có giá trị thì đòi hỏi các thẩm phán phải
thực sự có trình độ cao, có khả năng phân tích, đánh giá và đưa ra các
phán quyết có chất lượng tốt, từ đó mới có thể xây dựng nên các án lệ có
chất lượng cao. Tuy nhiên, thực tế đội ngũ thẩm phán ở Việt Nam hiện
nay còn mỏng, chưa thực sự đồng bộ về năng lực và trình độ chuyên môn,
vẫn còn một bộ phận cán bộ, Thẩm phán còn hạn chế về trình độ chuyên môn
nghiệp vụ; tinh thần trách nhiệm trong công tác chưa cao, nên ảnh hưởng
tới hiệu quả công tác; cá biệt còn có những cán bộ, Thẩm phán có hành
vi vi phạm bị xử lý kỷ luật, thậm trí bị truy cứu trách nhiệm hình sự[6].
Trong năm 2020, Tòa án nhân dân tối cao đã nhận được tổng số 58 đơn tố
cáo đối với cán bộ, công chức. Ngoài ra, còn có một số đơn nặc danh hoặc
mạo danh và theo quy định của pháp luật không phải xem xét, giải quyết.
Qua phân loại, xử lý có 42 đơn đủ điều kiện thụ lý để xem xét, giải
quyết 16 đơn không đủ điều kiện thụ lý gồm: 05 đơn tố cáo trùng lặp, 05
đơn là đơn tố cáo nhưng có nội dung khiếu nại về tố tụng, 04 đơn nặc
danh, 02 đơn lưu theo dõi[7].
Để áp dụng án lệ một cách linh hoạt và đúng quy chế, chúng ta cần xây
dựng một mô hình đào tạo Thẩm phán thích hợp, bảo đảm các Thẩm phán có
đủ tâm, đủ tầm. Bên cạnh đó, từng bước kéo dài nhiệm kỳ của Thẩm phán
nhằm bảo đảm tính độc lập của Thẩm phán khi xét xử.
Tóm lại, xây dựng án lệ và áp
dụng án lệ là nhu cầu tất yếu trong hoạt động áp dụng pháp luật ở Việt
Nam hiện nay. Tuy đã có những văn bản hướng dẫn sơ khai từ Nghị quyết số
49/NQ-TW ngày 2/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp
đến năm 2010, nhưng đến năm 2016, nước ta mới có những án lệ đầu tiên.
Do thời gian áp dụng án lệ còn ngắn, nên việc áp dụng án lệ vẫn còn
nhiều mới mẻ và gặp nhiều khó khăn. Để khắc phục những hạn chế, bất cập,
cần trao quyền nhiều hơn cho Tòa án, quan niệm lại về nguồn án lệ trong
hệ thống các loại nguồn pháp luật, cụ thể hóa và đồng bộ hóa những quy
định còn chưa rõ về án lệ và tiếp tục nâng cao chất lượng xét xử của Tòa
án thông qua việc đào tạo thẩm phán, tích cực công bố các kết quả
nghiên cứu về án lệ, phục vụ cho ngành Tòa án./.
[1]
Nguyễn Bá Bình (Chủ biên), Án lệ và sử dụng án lệ trong đào tạo luật ở
Việt Nam hiện nay (Sách chuyên khảo), Nxb. Tư pháp, Hà nội, 2019, tr.
14-19.
[2] Theo số liệu cập nhật tháng 11/2021 có 43 án lệ đã được công bố trên website: http://anle.toaan.gov.vn, truy cập gần nhất ngày 9/11/2021.
[3] Theo số liệu cập nhật tháng 11/2021 có 763.343 bản án đã được công bố trên website: http://congbobanan.toaan.gov.vn, truy cập gần nhất ngày 9/11/2021.
[4] Học viện Toà án (2018), Giáo trình Những vấn đề chung về nghề thẩm phán, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, tr.352.
[5] Áp dụng án lệ trong xét xử các vụ án dân sự từ thực tiễn xét xử của Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai, https://tapchitoaan.vn, truy cập ngày 19/11/2020.
[6] Trích Báo cáo số 11/BC-TA của Tòa án nhân dân tối cao ngày 20/3/2013 về việc trả lời chất vấn của đại biểu Quốc hội.
[7]
Trích Báo cáo số 45/BC-TA của Chánh án tòa án nhân dân tối cao ngày
09/10/2020 về công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo của tòa án nhân dân
năm 2020.
(Nguồn tin: Bài viết được đăng tải trên Ấn phẩm Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp số 01 (449), tháng 01/2022.)