Thứ Năm, 12 tháng 2, 2009

HAI HỆ THỐNG PHÁP LUẬT COMMON LAW VÀ CIVIL LAW


Nguyễn Minh Tuấn
(Trích trong Sách: Tập bài giảng Lịch sử nhà nước và pháp luật thế giới, Nhà xuất bản chính trị Quốc gia, Hà nội, năm 2007)

Hệ thống pháp luật Common Law và Civil Law là hai hệ thống pháp luật lớn và điển hình trên thế giới. Hai hệ thống này có những điểm đặc thù, tạo nên những "dòng họ" pháp luật, với những đặc trưng pháp lý riêng. Mặc dù ngày nay pháp luật ở các nước thuộc hai hệ thống này cũng có nhiều thay đổi theo hướng bổ khuyết những mặt hạn chế, tích hợp nhiều nội dung mới, nhưng về cơ bản sự thay đổi ấy vẫn không làm mất đi những đặc thù riêng, triết lý riêng, từng tạo nên "bản sắc" của hai hệ thống pháp luật này.

Thứ Tư, 11 tháng 2, 2009

TRIẾT LÝ CỦA TỰ DO

Nguyễn Minh Tuấn
Nguồn: Tạp chí Tia sáng, Số 3/2005, tr.12-13.

Montesquieu trong cuốn Tinh thần pháp luật đã định nghĩa “Tự do là quyền được làm tất cả những điều mà luật cho phép”. Vậy tự do là gì? Đối với mỗi cá nhân, tự do là sự nhận thức được qui luật và thực hiện theo qui luật. Không thể và không bao giờ con người có tự do tuyệt đối bởi lẽ về mặt khách quan, con người không thể sống không phụ thuộc vào tự nhiên và không trong mối liên hệ với cá nhân khác, về mặt chủ quan, con người cũng không ai có khả năng nhận thức được tất cả, và cũng không ai sống mà tuyệt đối không phụ thuộc vê vật chất hoặc tinh thần với người khác. 

Thứ Ba, 13 tháng 1, 2009

NHÀ NƯỚC CỘNG HOÀ DÂN CHỦ ĐẦU TIÊN TRONG LỊCH SỬ NHÂN LOẠI

Nguyễn Minh Tuấn
(Trích từ sách: Lịch sử nhà nước và pháp luật thế giới, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà nội, 2007)
Nhà nước Aten được đánh giá là nhà nước dân chủ nhất thời kỳ cổ đại, thậm chí đây còn là hình thức dân chủ sơ khai nhất trong lịch sử từ khi có nhà nước và pháp luật, tính chất dân chủ của nó đặt cơ sở cho nền văn minh Hy La cổ đại và cho toàn bộ nền văn minh Châu Âu thời kỳ cận hiện đại sau này.
1. Sự hình thành nhà nước cộng hoà dân chủ chủ nô Aten


Cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng. Nhà nước Aten phát triển đến trình độ cao, suy cho cùng là do yếu tố kinh tế chi phối, quyết định. Về mặt vị trí địa lý, nhà nước Aten ra đời ở miền trung lục địa Hi Lạp, nơi là khu vực có nhiều khoáng sản, có đường bờ biển dài, nhiều vịnh, rất thuận lợi cho việc phát triển kinh tế công thương nghiệp (đặc biệt là thương mại đường biển).

Từ thế kỉ 12 TCN, tộc người Đôriêng gồm 4 bộ lạc đến xâm chiếm vùng đồng bằng miền Trung. Từ thế kỉ 8 TCN, 4 bộ lạc này liên minh với nhau hình thành nên Liên minh bộ lạc, đến thế kỉ thứ 7 TCN, đã xây dựng xong thành bang Aten, và thế kỉ 6 TCN thì nhà nước thực sự được hình thành. Những người đứng đầu 4 bộ lạc là quí tộc chủ nô và nắm toàn bộ quyền lực nhà nước.

Thứ Tư, 2 tháng 4, 2008

HƯỚNG DẪN SINH VIÊN NGHIÊN CỨU KHOA HỌC

Nguyễn Minh Tuấn
Phần hướng dẫn dưới đây phục vụ cho sinh viên K49 chuyên ngành Lý luận – lịch sử nhà nước và pháp luật, Khoa Luật trực thuộc Đại học Quốc gia Hà nội làm Khóa luận tốt nghiệp (KLTN) năm 2008.

Sinh viên sau khi nhận đề tài và giáo viên hướng dẫn, cần liên hệ trực tiếp với giáo viên theo địa chỉ email: nguyenminhtuan_hn@yahoo.com hoặc số điện thoại: 0912313977 (Từ 9h – 10h tối hàng ngày). Thời gian hướng dẫn làm KLTN vào chiều thứ năm hàng tuần từ 14h – 16h tại Bộ môn Lý luận – Lịch sử nhà nước và pháp luật, tầng 4 nhà E1 Khoa Luật ĐHQGHN.

Dưới đây là hướng dẫn cụ thể giúp sinh viên hoàn thành KLTN. Những chỉ dẫn dưới đây chỉ mang tính chất tham khảo, định hướng và không làm hạn chế tính sáng tạo, sự tự do trong khoa học của sinh viên.

Chủ Nhật, 24 tháng 2, 2008

SUY NGHĨ VỀ CƠ CHẾ BẦU TỔNG THỐNG VÀ NGÀNH HÀNH PHÁP Ở HỢP CHỦNG QUỐC HOA KỲ



Nguyễn Minh Tuấn
(Nguồn: Tuần Việt Nam, Báo điện tử Vietnamnet, 
có thể truy cập đường link gốc tại đây )

Xa lắm rồi, cách đây hơn 200 năm có một hội nghị có tên là Hội nghị lập hiến được tổ chức ở nước Mỹ xa xôi, họ đã từng bàn về vai trò của ngành Hành pháp và cách thức bầu Tổng thống. Sản phẩm của hội nghị này mà ai cũng biết đó chính là Hiến pháp Mỹ năm 1787, bản Hiến pháp thành văn đầu tiên trong lịch sử nhân loại. Đến nay mặc dù đã có những tu chính hiến pháp, nhưng kết quả của Hội nghị đó là 7 điều, 4000 từ trong Hiến pháp thì vẫn còn nguyên hiệu lực thực tế.

Chủ Nhật, 27 tháng 1, 2008

CÂU HỎI ÔN THI MÔN LỊCH SỬ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT THẾ GIỚI

Danh mục câu hỏi ôn thi
Môn Lịch sử nhà nước và pháp luật thế giới
(Theo đề cương chi tiết chương trình tín chỉ đã được duyệt)

1. Những tiền đề kinh tế – xã hội dẫn đến sự tan rã của công xã nguyên thuỷ và sự ra đời của nhà nước và pháp luật.
2. Cơ sở kinh tế – xã hội của sự ra đời, tồn tại và phát triển của nhà nước Phương Đông cổ đại.
3. Đặc trưng cơ bản của nhà nước Phương Đông thời kỳ cổ đại
4. Những đặc trưng cơ bản của pháp luật Phương Đông cổ đại?
5. Những nội dung và giá trị cơ bản của Bộ luật Hammurapi.
6. Những điểm tương đồng và khác biệt giữa Bộ luật Hammurapi (Lưỡng Hà cổ đại) và Bộ luật Manu (ấn Độ cổ đại)?
7. Đặc trưng cơ bản của nhà nước và pháp luật Phương Tây thời kỳ cổ đại
8. Qui luật chung và những nét đặc thù về sự ra đời nhà nước ở Phương Đông và Phương Tây thời kỳ cổ đại.
9. Những điểm khác biệt cơ bản giữa nhà nước và pháp luật Phương Đông và Phương Tây thời kỳ cổ đại.
10. Nhận xét tính chất dân chủ của nhà nước Aten.

Thứ Bảy, 5 tháng 1, 2008

GIỚI THIỆU TẬP BÀI GIẢNG LỊCH SỬ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT THẾ GIỚI


Nguyễn Minh Tuấn

Nhà nước và pháp luật là hai hiện tượng quan trọng và rộng lớn nhất thuộc kiến trúc thượng tầng, hai hiện tượng này thường xuyên có sự vận động và biến đổi không ngừng. Lịch sử nhà nước và pháp luật nói chung và lịch sử nhà nước và pháp luật thế giới nói riêng là môn học cung cấp cho người học một cách nhìn tổng quan về quá trình phát sinh, tồn tại, phát triển cũng như xu hướng vận động của hai hiện tượng này từ quá khứ đến hiện tại.
Môn học lịch sử nhà nước và pháp luật thế giới nhiều năm nay được giảng dạy tại Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà nội và nhiều cơ sở đào tạo luật học khác trong cả nước. Đây là một môn học khó nhưng cũng rất lí thú với hầu hết các sinh viên vì đây là bước mở đầu đối với tất cả các sinh viên, học viên khi tiếp cận với tri thức và bí ẩn muôn đời của nhân loại về nhà nước và pháp luật. Tập tài liệu này được biên soạn vì một mục đích giản dị: giúp học viên nắm được những vấn đề chung nhất và cơ bản nhất về môn học lịch sử nhà nước và pháp luật thế giới một cách có hệ thống. Trên cơ sở kế thừa các giáo trình trước đây, Giáo trình lần này cũng đã cập nhật, bổ sung kịp thời nhiều vấn đề mới theo từng nội dung cụ thể, các vấn đề được trình bày trong giáo trình này được viết theo hướng gợi mở, ngắn gọn để trên cơ sở đó người học khi có cơ hội sẽ tiếp tục tìm tòi, nghiên cứu mở rộng.

Chủ Nhật, 16 tháng 12, 2007

HIẾN PHÁP 1946 VÀ VẤN ĐỀ TỔ CHỨC QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC

Nguyễn Minh Tuấn

Bài viết dưới đây của tác giả phân tích những nét độc đáo trên phương diện tổ chức quyền lực nhà nước của bản Hiến pháp năm 1946.

1. Hiến pháp 1946 là hiến pháp không theo bất kì một nguyên mẫu theo cách tổ chức quyền lực nào đã có sẵn trong lịch sử

Hiến pháp 1946 ghi nhận thành quả của Cách mạng Việt Nam, thể hiện tinh thần đại đoàn kết rất sâu sắc: "Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt giống nòi, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo". 

Sau tổng tuyển cử ngày 6/1/1946, thành lập Nghị viện nhân dân, Nghị viện là nơi thể hiện rõ nét chủ quyền của nhân dân: "Nghị viện là cơ quan có quyền cao nhất". Đến đây, ta thấy nó gần giống hình thức Cộng hòa Đại nghị. Nhưng Điều 43 lại khẳng định: "Cơ quan hành chính cao nhất của toàn quốc là Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa", điều đó có nghĩa rằng cơ quan hành chính là một cơ quan độc lập. Chưa hết, Hiến pháp năm 1946 không qui định trách nhiệm của Chủ tịch nước trước Nghị viện, mà khẳng định: "Chủ tịch nước không phải chịu một trách nhiệm nào, trừ khi phạm tội phản quốc". Đến đây, ta lại thấy với thiết chế Chủ tịch nước vừa là người đứng đầu nhà nước đại diện về đối nội, đối ngoại; nhưng cũng là người đứng đầu Chính phủ, và không chịu bất kì trách nhiệm gì trừ tội phản quốc. Qui định này lại cho ta thấy đặc điểm này lại mang dáng dấp của hình thức Cộng hòa Tổng thống.

Điều đặc biệt là sau khi cách mạng Tháng mười Nga năm 1917 thành công, một bản Hiến pháp rất nổi tiếng có hiệu lực ở Liên xô thời điểm đó là Hiến pháp năm 1936, là một người chịu ảnh hưởng sâu sắc của chủ nghĩa Mác - Lênin, nhưng chủ tịch Hồ Chí Minh cũng không lấy bản Hiến pháp này là khuôn mẫu khi xây dựng Hiến pháp 1946.

Thứ Hai, 3 tháng 12, 2007

LÀNG XÃ XƯA VÀ NAY




ThS. Nguyễn Minh Tuấn
(Bài viết đã đăng trên Tạp chí Khoa học và Tổ quốc, số 11 và số 12 năm 2004)



(I) Cơ sở hình thành và những hệ quả

của xã hội làng xã từ cổ truyền đến hiện tại
------


Nguồn gốc sâu xa của mọi sự khác biệt về văn hoá chính là do những khác biệt về điều kiện tự nhiên (địa lý - khí hậu) và xã hội (lịch sử - kinh tế) qui định (Xem thêm Trần Ngọc Thêm, Tìm về bản sắc văn hoá Việt nam, Nhà xuất bản thành phố Hồ Chí Minh, năm 2001, tr.36.).

Xét về vị trí địa lý và khí hậu, Việt Nam nằm ở phía Đông Nam Châu Á, diện tích 312.000 km2, có khí hậu nhiệt đới nóng ẩm, đặc thù nắng nóng và mưa nhiều (lượng mưa hàng năm hàng khoảng 1000 mm), với hệ thống sông nước dày đặc, rất thuận lợi cho thực vật phát triển, đặc biệt là lúa nước (Xem Trần Trọng Kim, Việt Nam Sử Lược, Nhà xuất bản Đà Nẵng, 2003, tr.12-13.).

Thứ Hai, 26 tháng 11, 2007

HÀNH PHÁP Ở HỢP CHỦNG QUỐC HOA KỲ


(Nguồn ảnh minh hoạ trên được lấy từ đây)
HÀNH PHÁP Ở HỢP CHỦNG QUỐC HOA KỲ

ThS. Nguyễn Minh Tuấn
Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà nội 

(Báo đời sống và pháp luật, 
Số 26 (48) - Từ ngày 29/6 đến 5/7/2007, trang 12)

Cách đây đúng 220 năm (năm 1787), có một hội nghị có tên là Hội nghị lập hiến được tổ chức ở nước Mỹ xa xôi, họ đã từng bàn về vấn đề vai trò của ngành Hành pháp, những tư tưởng ấy chủ yếu được thể hiện trong tập hợp những bài viết về chủ trương chế độ liên bang (Federalist Papers) của các tác giả Madison, Halminton và John Jay.
Vấn đề vừa xa mà lại vừa gần. Xa vì thời gian, xa vì địa lý, nhưng gần vì nó là vấn đề mà ngành hành pháp nào không phân biệt chế độ chính trị, xã hội, muốn hiệu năng, cũng phải đặt ra những vấn đề như thế để giải quyết.

Thứ Năm, 22 tháng 11, 2007

NÉT ĐỘC ĐÁO CỦA QUI PHẠM PHÁP LUẬT TRONG BỘ LUẬT HỒNG ĐỨC


ThS. Nguyễn Minh Tuấn
Khoa Luật, ĐHQGHN
Nguồn: Nghiên cứu Lập pháp,
Số 33(118) Tháng 3/2008 , Hiến kế Lập pháp (tr.49 - 51)


(I)
Cách diễn đạt qui phạm pháp luật
trong Bộ luật Hồng Đức

1. Muốn xây nhà phải có gạch, từng viên gạch trong tòa nhà pháp luật chính là các qui phạm pháp luật. Một qui phạm pháp luật thường rất chặt chẽ vì xét về mặt logic nó gồm có 3 bộ phận là giả định, qui định và chế tài. Giả định trả lời câu hỏi chủ thể nào, thời gian nào, hoàn cảnh nào phải thực hiện pháp luật? Bộ phận qui định trả lời câu hỏi nếu đặt vào hoàn cảnh đã nêu ở phần giả định thì chủ thể đó sẽ phải xử sự như thế nào? và bộ phận chế tài trả lời câu hỏi trường hợp không xử sự đúng yêu cầu đó thì chủ thể sẽ phải gánh chịu những hậu quả bất lợi như thế nào?
Bộ luật Hồng Đức là bộ luật thành văn nổi tiếng và có giá trị bậc nhất trong cổ pháp Việt Nam. Bộ luật này gồm 722 Điều, được chia làm 13 Chương, đa phần các điều luật được xây dựng theo phương thức cả 3 bộ phận là giả định, quy định và chế tài đồng thời xuất hiện trực tiếp, thậm chí ngay trong cùng một Điều luật.

Chủ Nhật, 18 tháng 11, 2007

SỰ KHẲNG ĐỊNH CHỦ QUYỀN CỦA NHÀ NƯỚC QUÂN CHỦ VIỆT NAM


Nguyễn Minh Tuấn 

Đây là câu hỏi do có nhiều bạn sinh viên năm thứ nhất (K52) nêu lên, dưới đây là một vài gợi ý trả lời:
Cách 1. Khẳng định chủ quyền quốc gia bằng tự quyết định và kiên quyết bảo vệ biên giới lãnh thổ:
VD1: Thời Tiền Lê, Lê Hoàn đã tổ chức một lực lượng quân đội mạnh ở sát vùng biên giới. [Xem Nguyễn Hồng Dương, Phan Đại Doãn, Sơ thảo lịch sử bảo vệ an ninh quốc gia và giữ gìn trật tự an toàn xã hội. NXB Công an nhân dân, Hà nội, 1990, tr.39]
VD2: Thời Lý Nhân Tông, nhà vua gửi một tờ biểu cho vua Tống đòi lại những vùng đất mà quân Tống đã chiếm trước đây, có đoạn viết: "Mặc dù đất ấy chỉ nhỏ như hòn đạn, những vẫn khiến lòng tôi đau xót luôn nghĩ đến cả trong giấc mộng". [Xem Nguyễn Hồng Dương, Phan Đại Doãn, Sdd, tr.126]
VD3: Lê Thánh Tông sau này đã có câu nói rất nổi tiếng: "Một thước núi, một tấc sông của ta lẽ nào tự tiện vứt bỏ đi được. Kẻ nào dám đem một thước núi, một tấc đất của Thái Tổ để lại làm mồi cho giặc thì kẻ đó phải bị trừng trị" [Xem: Quốc sử quán triều Nguyễn, Việt sử thông giám cương mục. Bản dịch của Ban nghiên cứu Văn sử địa, tập XI, Nxb, Văn sử địa, Hà nội, 1959, tr.68].
Nhà Lê còn cho dựng cột mốc ở các vùng biên giới và lập bản đồ nước Đại Việt. Lê Thánh Tông đã hạ lệnh cho 12 quan thừa tuyên thân hành đi khám xét núi sông, nơi hiểm trở, vẽ rõ ràng thành bản đồ có ghi chú nộp cho Bộ Hộ để sáng tác bản đồ địa dư. Cuối năm 1469, bản đồ 12 Đạo thừa tuyên được hoàn thành.
VD4: Cuốn Dư địa chí của Nguyễn Trãi là một tác phẩm rất nổi tiếng, là tác phẩm địa lý - lịch sử đầu tiên của cả nước, tác phẩm thành công do ông đã bỏ rất nhiều công sức đi nhiều nơi và ghi chép công phu diện mạo, địa hình, sông núi, tên làng, phong tục tập quán.
VD5: Nhà Nguyễn đã tiến hành khẳng định chủ quyền trên các vùng biển như Phú Quốc, Côn Đảo, Hoàng Sa, Trường Sa... Vua Gia Long đã cho thành lập "Đội Hoàng Sa" để khai thác quần đảo bãi cát vàng và nhiều lần cử quan lại ra Hoàng Sa đo đạc, vẽ bản đồ.
VD6: Vùng đất phía Nam mà chúng ta có được là bằng nhiều hình thức khác nhau như: thông qua quan hệ hôn nhân (Trần Nhân Tông đã gả Huyền Trân Công Chúa cho Chế Mân (Vua Chiêm), nhận 2 Châu Ô, Châu Lý - vật dẫn cưới); qua tổ chức di dân khẩn hoang (Thời Lê, Nguyễn) và có cả hình thức chinh phạt bằng quân sự (Thời Lê Thánh Tông về cơ bản giải quyết Chăm pa bằng con đường này);

Thứ Tư, 14 tháng 11, 2007

DÂN CHỦ TRONG CHẾ ĐỘ PHONG KIẾN VIỆT NAM

Nguyễn Minh Tuấn
Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà nội
Nguồn: Tạp chí Nghiên cứu lập pháp Số 10 (45), 2004, tr.62 - 67

Có nhiều quan điểm hiện nay hoài nghi hoặc phủ nhận về sự xuất hiện và tồn tại một truyền thống dân chủ trong điều kiện của một chế độ quân chủ chuyên chế trong lịch sử phong kiến ở Việt Nam. Trong khi đó lại có nhiều quan điểm khẳng định rằng nước ta từ xưa đã có một truyền thống dân chủ, đó là một trong những truyền thống ưu việt của nhân dân được tạo nên trong quá trình dựng nước và giữ nước, và là một cơ sở thuận lợi để xây dựng chế độ làm chủ tập thể, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa hiện nay. Vậy trong truyền thống lịch sử ở nước ta đã thực sự có dân chủ chưa? Trong bài viết này, chúng tôi xin được luận bàn về những biểu hiện và rút ra những đặc tính chung nhất từ tư tưởng đến hiện thực của chế độ dân chủ trong lịch sử, trên cơ sở đó, có thể rút ra những bài học trong việc xây dựng nền dân chủ ở nước ta hiện nay.

Thứ Hai, 12 tháng 11, 2007

TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT GIỮA BỘ LUẬT HỒNG ĐỨC VÀ CÁC BỘ LUẬT CỦA TRUNG HOA?


Nguyễn Minh Tuấn 

Trong cuốn sách Law and Society in Seventeenth and Eighteenth Century (Luật và xã hội Việt Nam thế kỷ thứ 17 và 18) của tác giả Insun Yu, xuất bản tại Seoul, Hàn Quốc, năm 1990 đã chỉ ra rằng: "Trong số 722 điều khoản của Bộ luật Hồng Đức (BLHD), có 261 điều vay mượn hoàn toàn hoặc một phần từ Luật nhà Đường, 53 điều từ Luật nhà Minh và 1 điều từ luật khác. Còn lại 407 điều là có riêng trong Bộ luật nhà Lê." [tr.72]

Điểm tương đồng

 
Có nhiều điểm tương đồng nhưng điểm tương đồng rõ nét nhất là BLHĐ và các Bộ luật Trung Quốc đều được xây dựng trên nền tảng Nho giáo, nên BLHĐ và Luật của Trung Hoa đều coi trọng chữ TRUNG và HIẾU. (Trong đạo Tam cương, ba mối quan hệ quan trọng thời bấy giờ đều có những chuẩn mực nhất định: Quân nhân - Thần trung; Phu từ - Tử hiếu; Phu nghĩa - Phụ kính).

Ví dụ 1: Đều nêu lên qui định thập ác trong đó có tới 5 tội (Mưu phản, mưu đại nghịch, mưu chống đối, đại bất kính, bất nghĩa) liên quan đến quan hệ vua - tôi, đến sự ổn định của triều đình.
 

Ví dụ 2: Chương Vệ cấm gồm 47 điều, trong đó có 17 điều vay mượn từ các đạo luật Trung Hoa, nhằm bảo vệ tính mạng, thân thể, uy tín và quyền sở hữu tài sản của nhà vua.
 

Ví dụ 3: Điều 2 có tội bất hiếu gồm tố cáo, rủa mắng ông bà cha mẹ, trái lời cha mẹ dạy bảo, nuôi nấng thiếu thốn, có tang cha mẹ mà lấy vợ, lấy chồng, vui chơi ăn mặc như thường, có tang ông bà cha mẹ mà giấu kín...

Chủ Nhật, 11 tháng 11, 2007

NHỮNG GIÁ TRỊ TÍCH CỰC CỦA NHO GIÁO TRONG BỘ LUẬT HỒNG ĐỨC



Nguồn:Tạp chí Khoa học, Đại học Quốc gia Hà nội,  
Chuyên san Kinh tế - Luật, T.XX, No 4, 2004, trang 39-44

Quốc Triều Hình Luật thời Lê (hay còn được gọi là Bộ Luật Hồng Đức) là bộ luật được nhiều nhà khoa học trong nước và nước ngoài đánh giá rất cao về nhiều phương diện trong lịch sử phong kiến Việt Nam. Luật pháp thời này nghiêm đến mức "của rơi ngoài đường không ai nhặt, nhà nhà đêm ngủ mở cửa không phải lo trộm cướp". Đây là Bộ luật chịu ảnh hưởng sâu sắc của Nho giáo, là Bộ luật ra đời trong thời điểm Nho giáo có mức độ, điều kiện và phạm vi ảnh hưởng rộng rãi, sâu sắc nhất. Có thể khẳng định rằng Nho giáo cũng như nhiều hệ tư tưởng khác luôn chứa đựng những giá trị tích cực và hạn chế. Trong phạm vi bài viết này, tác giả chỉ tập trung nghiên cứu những ảnh hưởng tích cực cơ bản của Nho giáo trong Bộ luật Hồng Đức.

BỘ LUẬT HAMMURABI - MỘT TRONG NHỮNG BỘ LUẬT CỔ XƯA NHẤT CỦA NHÂN LOẠI


ThS. Nguyễn Minh Tuấn
Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà nội
Nguồn: Tạp chí Luật học,
số 6/2005

(Những bài viết liên quan đến việc nghiên cứu Bộ luật Hammurabi – Một trong những Bộ luật cổ xưa nhất của nhân loại, tác giả đã gửi đăng ở nhiều báo, tạp chí, mỗi bài viết là sự khai thác ở những góc nhìn khác nhau về Bộ luật này, trong đó có Báo Pháp luật Việt Nam ra ngày 2/9/2004; Tạp chí Luật học số 6/2005; Kỉ yếu kỉ niệm Khoa Luật 30 năm xây dựng và trưởng thành v.v…Dưới đây là một bài viết có tính chất tổng hợp những góc nhìn khác nhau về Bộ luật này, xin gửi đến các bạn sinh viên để cùng chia sẻ, góp ý)

LUẬT PHÁP CẦN, RẤT CẦN NHƯNG CHƯA ĐỦ

 


Nguyễn Minh Tuấn
Nguồn: Chuyên mục Thư Hà nội, 
Báo điện tử Vietnamnet,
Đăng ngày 2/11/2006

Sự cần thiết, tối cần thiết của luật pháp là điều hiển nhiên. Nhưng còn những yếu tố hỗ trợ khác nữa cũng không kém phần hữu hiệu trong việc điều chỉnh hành vi con người, cộng đồng và quản lý đất nước.
Quốc hội đang giành phần lớn thời gian để xây dựng và hoàn chỉnh hệ thống luật pháp của Việt Nam. Đó là quá trình tất yếu của một đất nước đang tiến lên văn minh và hiện đại, đang vươn tới một trình độ cao hơn trong lịch sử phát triển của dân tộc. Nhưng sẽ là không đầy đủ, nếu quên đi sự hỗ trợ của những yếu tố khác. Những yếu tố này cũng không kém phần quan trọng.

CHÍNH SÁCH DÂN TỘC Ở VIỆT NAM THỜI PHONG KIẾN

Nguyễn Minh Tuấn

1. Thông qua các cuộc hôn nhân với các tù trưởng có thế lực bằng việc hoặc là gả con gái cho các tù trưởng, hoặc đôi khi nhà vua lấy con gái tù trưởng làm phi, nhằm tạo nên mối quan hệ mật thiết giữa họ với triều đình trung ương theo kiểu gia tộc nhằm quản lý những vùng lãnh thổ và cư dân vùng biên viễn.
Ví dụ:
- Lý Công Uẩn đã gả con gái cho tù trưởng động Giáp ở Lạng Châu (vùng Bắc Giang và phía Nam Lạng Sơn hiện nay);
- Năm 1029, Lý Công Uẩn gả công chúa Bình Dương cho Thiệu Thái
- Năm 1036, Lý Thái Tông gả công chúa Kim Thành cho Châu mục Châu Phong là Lê Tông Thuận (vùng Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Sơn Tây hiện nay)
- Lý Thái Tông lấy con gái của Đào Đại Di vùng Châu Đăng (Hưng Hóa) làm phi, đồng thời gả công chúa Ngọc Kiều cho Châu mục châu Chân Đăng;
- Vua Trần Nhân Tông gả con gái là Huyền Trân Công Chúa cho vua Chiêm là Chế Mân. Chế Mân đem đất Châu Ô, Châu Lý làm vật dẫn cưới. Sau hai Châu đó đổi thành Châu Thuận và Châu Hóa, thường gọi là vùng đất Thuận Hóa.

LUẬN BÀN VỀ Y ĐỨC VÀ PHÁP LUẬT

Nguyễn Minh Tuấn
Nguồn: Thư Hà nội, Báo điện tử Vietnamnet
Đăng ngày 20/7/2006

(VietNamNet) - Giữa bao điều nhức nhối hàng ngày ở các phòng khám và chữa bệnh, vẫn có thể bắt gặp những hình ảnh thầy thuốc cao quí trong cuộc đời. Không chỉ phê phán, xã hội cần phải biết sẻ chia, quan tâm, khuyến khích và nhân rộng nhiều hơn những tấm gương như thế.

MỘT GÓC NHÌN VỀ VUA VIỆT NAM THỜI KỲ PHONG KIẾN


ThS. Nguyễn Minh Tuấn
Khoa Luật - ĐHQGHN
Nguồn: Dân chủ và Pháp luật,
Số 1, Số Chào Xuân năm 2008, tr.49-52

Lời toà soạn: Lâu nay, khi nói về Vua Việt Nam - người đứng đầu nhà nước trong chế độ phong kiến, nhiều ý kiến cho rằng, quyền lực của nhà vua là tuyệt đối và không bị hạn chế bởi bất kỳ yếu tố nào. Tác giả bài viết có một cách nhìn khác cho rằng, quyền lực của nhà vua cũng bị hạn chế và có nhiều điểm đặc thù so với Vua của Trung Hoa và các nước Tây Âu thời kỳ phong kiến. Từ sự luận giải này, tác giả cũng tham chiếu và gợi mở vấn đề tạo điểm nhấn trong tổ chức bộ máy nhà nước Việt Nam hiện nay phù hợp với xu thế dân chủ hóa, nhưng vẫn đảm bảo nguyên tắc tăng cường trách nhiệm người đứng đầu nhà nước.