Hiển thị các bài đăng có nhãn Lịch sử nhà nước và pháp luật thế giới. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Lịch sử nhà nước và pháp luật thế giới. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Ba, 15 tháng 5, 2012

TRƯỜNG PHÁI PHÁP LUẬT LỊCH SỬ Ở ĐỨC

Nguyễn Minh Tuấn
Nguồn: Tạp chí Nhà nước và Pháp luật,
Số 5 (289) 2012, đăng ngày 14/5/2012, tr. 39–47, đường link mục lục tạp chí tại đây.
 
Trường phái pháp luật lịch sử (die historische Rechtsschule) là trường phái pháp luật lớn, phát triển mạnh nhất ở Đức trong suốt thế kỷ XIX. Mở đầu cho sự ra đời của trường phái pháp luật lịch sử này là cuộc tranh luận khoa học giữa hai nhà luật học Thibaut (17721840) và Savigny (17791861) về vấn đề pháp điển hóa Bộ luật dân sự thống nhất của nước Đức. Những học giả của trường phái pháp luật lịch sử, mà người sáng lập là Savigny đã có nhiều đóng góp quan trọng trong sự phát triển khoa học pháp lý ở Đức, trong đó quan trọng nhất là việc xây dựng một phương pháp tiếp cận pháp luật mới, khảo cứu một cách toàn diện, có hệ thống Luật La Mã và thực tiễn áp dụng ở thời trung cổ để đưa ra những đóng góp tích cực vào quá trình pháp điển hóa Bộ luật dân sự của Đức năm 1900.

Thứ Ba, 10 tháng 4, 2012

CƠ CHẾ BẢO HIẾN Ở ĐỨC

Nguyễn Minh Tuấn
Nguồn: Tạp chí Tia sáng,
đăng ngày 9/4/2012,
truy cập đường link gốc tại đây, bản đầy đủ hơn tại đây


Bảo hiến ngày nay là vấn đề có ý nghĩa đặc biệt quan trọng và có tác động trực tiếp đến cả hệ thống pháp luật. Mô hình bảo hiến ở Cộng hòa Liên bang Đức là một trong những mô hình bảo hiến tân tiến rất đáng tham khảo đối với nhiều quốc gia trên thế giới đang muốn xây dựng một cơ chế bảo hiến thành công, triệt để theo nghĩa hiện đại.
Qua tìm hiểu, nghiên cứu, tác giả cho rằng có ba nguyên nhân cơ bản đảm bảo cho thể chế bảo hiến ở Đức thành công:

Thứ Sáu, 6 tháng 4, 2012

VÌ SAO CƠ CHẾ BẢO HIẾN THÀNH CÔNG Ở ĐỨC?

Nguyễn Minh Tuấn

Trong bài viết "Thêm một lời bàn về thể chế bảo hiến" đăng trên Tạp chí Tia sáng ngày 29/3/2012, PGS. TS. Phạm Duy Nghĩa đã chỉ ra rằng chúng ta có thể dễ dàng vay mượn một mô hình nào đó giống như một chiếc vương miện vào xứ mình, nhưng vấn đề đặt ra là liệu vương miện ấy có  tỏa sáng quyền uy, có bảo vệ được dân quyền thực sự được hay không mới là điều thực sự cần bàn. Tôi hoàn toàn đồng tình và chia sẻ với những trăn trở này. Cơ chế bảo hiến thực tế chỉ có thể ra đời và phát huy tác dụng tích cực khi nó được đặt trong những điều kiện của một bản Hiến pháp thực sự dân chủ, cùng với những đảm bảo cụ thể về điều kiện chính trị, kinh tế, xã hội.
Nhiều học giả hiện nay đánh giá cao cơ chế bảo hiến ở Đức, coi đây là một trong những mô hình thành công trên thế giới và rất đáng tham khảo đối với Việt Nam. Tuy nhiên câu hỏi đặt ra là vì sao cơ chế bảo hiến lại có thể thành công ở Đức, ẩn sau thành công ấy là những điều kiện, tiền đề nào? Bài viết dưới đây tôi xin chia sẻ quan điểm cá nhân cùng góp bàn, lý giải về vấn đề này.
Qua tìm hiểu, nghiên cứu, tôi cho rằng sở dĩ cơ chế bảo hiến ở Đức có thể thành công là do cơ chế này đã hội tụ được đầy đủ cả ba điều kiện cơ bản sau đây:

Thứ Tư, 14 tháng 3, 2012

BA GIÁ TRỊ CỐT LÕI CỦA LUẬT CƠ BẢN ĐỨC

Nguyễn Minh Tuấn
 Nguồn: Báo NguoiViet.de
đăng ngày 14/3/2012,
truy cập đường link gốc tại đây
Luật cơ bản (Grundgesetz) là văn bản pháp lý có giá trị và hiệu lực cao nhất trong hệ thống văn bản qui phạm pháp luật ở Đức hiện nay. Hơn 60 năm, trải qua bao biến cố lịch sử, văn bản pháp lý này vẫn chứng tỏ sức sống kì diệu của nó và vẫn tiếp tục có đóng góp quan trọng vào sự phát triển chung trên nhiều phương diện ở nước Đức. Câu hỏi đặt ra vậy đâu là những giá trị căn bản nhất, những giá trị có tính chất nền tảng, quyết định nhất khiến cho văn bản pháp lý này có sức sống lâu dài như vậy? Qua tìm hiểu, nghiên cứu, tôi cho rằng Luật cơ bản Đức có ba giá trị cốt lõi nhất và có ý nghĩa nhất sau đây:

Thứ Ba, 18 tháng 10, 2011

19 ĐIỀU VỀ QUYỀN CƠ BẢN - 19 YẾU TỐ CẤU THÀNH NỀN DÂN CHỦ BỀN VỮNG Ở ĐỨC


Tác giả bản dịch: Nguyễn Minh Tuấn
Nguồn bản gốc Tiếng Đức: tại Website chính thức của
Bundeszentrale für politische Bildung (BPB), truy cập tại đây

Nội dung và cơ chế đảm bảo thực hiện các quyền cơ bản là linh hồn của bất kỳ một bản Hiến pháp nào. 
19 Điều đầu tiên của Luật cơ bản năm 1949 là 19 qui định về quyền cơ bản và cũng chính là 19 viên đá tảng gắn kết tạo dựng nên nền dân chủ bền vững ở Đức. 
Xuất phát từ ý nghĩa quan trọng của những điều luật, tác giả xin trân trọng công bố và giới thiệu đến bạn đọc bản dịch tham khảo Tiếng Việt từ nguyên bản Tiếng Đức 19 quyền cơ bản trong Luật cơ bản (Grundgesetz) của CHLB Đức này.  
Bản dịch Tiếng Việt dưới đây cũng như những bản dịch khác đã giới thiệu trên trang blog cá nhân này chỉ mang tính chất tham khảo. Tác giả bản dịch hoàn toàn không chịu trách nhiệm pháp lý về bất cứ sự trùng lặp, sao chép hay suy luận nào khác đáng tiếc liên quan đến bản dịch này có thể xảy ra. Tác giả bản dịch rất mong nhận được các ý kiến đóng góp thiện chí của bạn đọc gửi về địa chỉ email nguyenminhtuan_hn@yahoo.com để hoàn thiện bản dịch này và các bản dịch văn bản pháp luật khác. (NMT)

Thứ Hai, 26 tháng 9, 2011

TÌNH HUỐNG PHÁP LÝ CÓ LỊCH SỬ HƠN MỘT THẾ KỶ Ở ĐỨC


Nguyễn Minh Tuấn

Tình huống pháp luật dưới đây đã có lịch sử hơn một thế kỷ ở Đức. Vào khoảng năm 1905, tức là 5 năm sau khi Bộ dân luật của Đức (1900) có hiệu lực, người ta bắt đầu tranh luận tình huống này. Trong lịch sử pháp luật ở Đức, đây được coi là một trong những tình huống pháp lý gây tranh luận nhiều nhất.
Tình huống đó như sau: 
Trong môt nhà hàng ở Hamburg của người chủ R, một người đàn ông tên là H đã mời người đồng nghiệp tên là B một món trai luộc (Austern). Trong khi thưởng thức món ăn, B phát hiện ra trong một con trai có viên ngọc trai (Perle) mà giá trị của viên ngọc trai này là một số tiền rất lớn thời điểm đó. Câu hỏi đặt ra: Ai là người sở hữu viên ngọc trai này? (Nguồn: Ch. Fahl, Sieben unterhaltsame Lektionen, 1. Aufl., 2010, S. 43f.)

Thứ Sáu, 23 tháng 9, 2011

TINH THẦN HIẾN PHÁP Ở ĐỨC

 

Nguyễn Minh Tuấn


Bức ảnh mà quí vị xem ở trên là bức ảnh miêu tả quang cảnh những buổi trao đổi, thảo luận về Hiến pháp tại  "nhà thờ thánh Paul" (Paulskirche/ St. Paul's Church) ở Frankfurt. Nhà thờ này được xem như là nơi khởi nguồn, là biểu tượng cho Tinh thần Hiến pháp ở Đức.  

Tại đây, ngày 28 tháng 3 năm 1849, bản Hiến pháp dân chủ đầu tiên của nước Đức đã được thông qua bởi một Quốc hội lập hiến mà thành viên là những nhà trí thức hàng đầu thời đó. Họ đã trao đổi rất kĩ lưỡng và kiến thiết ra một bản Hiến pháp dân chủ không thua kém bất cứ một bản Hiến pháp thành văn nào trên thế giới thời điểm đó. Có được thành quả ấy cũng bởi khi xây dựng Hiến pháp này, các nhà lập hiến đã ý thức được rằng Hiến pháp trước hết phải chứa đựng những giá trị pháp quyền, Hiến pháp sinh ra là để ghi nhận, bảo vệ quyền con người và chống lại sự lạm quyền của nhà nước.  (Xem: Edel/Thielmann, Rechtsgeschichte, 3. Aufl., 2003, Rn.526f.)

Đọc Hiến pháp này, người ta không khỏi ngạc nhiên và trân trọng những giá trị của nó, vì gần như tất cả các quyền tự do dân chủ mà hiện nay người Đức đang được hưởng đều đã được qui định một cách đầy đủ, chi tiết ở Chương VI của Hiến pháp như: quyền tự do ngôn luận (Điều 143), quyền tự do biểu tình (Điều 161), quyền tự do lập hội (Điều 162), quyền tự do tôn giáo (Điều 147), quyền tự do lựa chọn nghề nghiệp (Điều 158), quyền tự do khoa học (Điều 152), quyền sở hữu tài sản, quyền tự do cư trú, quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở (Điều 133), quyền bất khả xâm phạm về thư tín, quyền bình đẳng (Điều 137), các quyền tố tụng, liên quan đến việc bắt giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử (Điều 175), bãi bỏ hình phạt tử hình (Điều 139)... 

Thứ Ba, 13 tháng 9, 2011

BẢN DỊCH TUYÊN NGÔN VỀ QUYỀN CỦA BANG VIRGINIA NĂM 1776

(George Mason [1725 - 1792] - đồng tác giả 
Tuyên ngôn về quyền của bang Virginia 1776)
Giới thiệu và dịch sang Tiếng Việt: Nguyễn Minh Tuấn

Virginia Declaration of Rights - Tuyên ngôn về quyền của bang Virginia năm 1776 là văn bản pháp lý quan trọng trong lịch sử pháp luật thế giới. Đây là văn bản pháp lý có tính khởi nguồn về quyền con người, khởi nguồn về phân quyền và là văn bản pháp lý có ảnh hưởng sâu sắc đến các văn bản pháp lý khác sau này như: Tuyên ngôn độc lập của Mỹ, Tuyên ngôn về quyền của Mỹ và Tuyên ngôn về quyền con người và quyền công dân của Pháp cũng như nhiều văn bản pháp lý khác.


Quá trình chuẩn bị cho bản Tuyên ngôn này bắt đầu từ đầu năm 1776, tại thời điểm mà cuộc cách mạng tư sản Mỹ chống thực dân Anh vẫn đang diễn ra và được thông qua vào ngày 12/06/1776. Những người có công lao lớn tham gia soạn thảo bản Tuyên ngôn này là George Mason, Thomas Jefferson and James Madison. Trong đó, người có công đặc biệt là George Mason - người đã soạn thảo các qui định bảo vệ các quyền tự do của con người và xác định rõ mục đích cơ bản của chính quyền.

Thứ Hai, 1 tháng 8, 2011

HÀNG NGÀN ĐIỂM KHÔNG THI ĐẠI HỌC MÔN SỬ: CHUYỆN BÌNH THƯỜNG?

 Nguyễn Minh Tuấn


Trước kết quả thê thảm của môn lịch sử trong kì thi đại học vừa qua, trả lời báo Tuổi trẻ ngày 30/7, người đứng đầu Bộ giáo dục đã cho rằng: "Theo tôi, trong một kỳ thi như kỳ thi đại học vừa qua, có hàng ngàn điểm 0 là bình thường. Đây là kỳ thi cấp quốc gia, là thi tuyển, với mục đích phân loại để làm rõ đâu là người giỏi, người khá, đâu là người yếu kém. Vì vậy, qua quá trình thi lộ ra những học sinh kém là bình thường."


Tôi thực sự không hiểu ngài Bộ trưởng nói "bình thường" là theo nghĩa nào. Đúng là kì thi nào cũng cần phải mang tính phân loại, tìm ra người giỏi, người khá, người yếu kém. Nhưng vấn đề là số lượng, là tỉ lệ bài thi yếu kém đó là bao nhiêu trong tổng thể những người dự thi? Nếu tỉ lệ bài thi yếu kém quá nhiều, hàng nghìn thí sinh không làm được một chút nào, sau khi đã có một thời gian dài ôn luyện, đó chắc chắn phải được xem là việc rất bất bình thường và phải nghiêm túc xem xét lại từ cách dạy, cách học và cách đánh giá. Đơn giản hơn là giáo viên, nếu môn học giáo viên đó dạy mà có quá nhiều điểm 0, điểm yếu kém, thì việc đầu tiên người giáo viên cần làm là phải tự xem lại mình, mà có biện pháp khắc phục, sửa chữa. Huống chi đây lại là người đứng đầu ngành giáo dục của cả một nước, kết quả thi thấp như thế, một thực trạng đáng báo động như thế, vậy mà ngài Bộ trưởng lại thản nhiên cho rằng đó là việc BÌNH THƯỜNG.

Thứ Sáu, 20 tháng 5, 2011

VÌ SAO CẦN PHẢI CÓ TỰ DO NGÔN LUẬN?

(Bạn đã nhìn thấy gì trong bức ảnh này? Nguồn ảnh: tại đây)
Bạn hãy dành khoảng 1 phút và nhìn vào bức hình trên. 

Bạn đã thấy gì trong đó?

Có người sẽ nói rằng đó là một phụ nữ trẻ tuổi, có người phản đối nói rằng không, đó là một bà cụ. 


Qua tranh luận, người ta mới phát hiện ra rằng thực chất đây là hình vẽ có tính mô phỏng, nhìn kĩ bạn sẽ thấy "cằm của người phụ nữ trẻ tuổi trong một góc nhìn khác đồng thời là mũi của một bà cụ". 

Nữ văn sĩ người Pháp Anais Nin đã nói rằng: “chúng ta không nhìn mọi vật như chúng vốn có, chúng ta thường nhìn mọi vật theo cách chúng ta là ai” ("We don't see things as they are, we see things as we are"). 

Cùng là một con bò. Một cậu bé sinh ra ở quê, quen với đồng ruộng nghĩ ngay đến "sức kéo". Một cậu bé sinh ra ở thành phố hay được bố cho đi ăn nhà hàng sẽ nghĩ ngay rằng: "À, con bò này mà làm món bò bít tết thì ngon tuyệt". Một cậu bé sinh ra trong gia đình làm kinh doanh sẽ nghĩ rằng: "Con bò này ít cũng phải hai chục triệu". 

Thứ Ba, 3 tháng 5, 2011

BÀI PHỎNG VẤN GS. ALAN D.J.MACFARLANE VỀ HỆ THỐNG PHÁP LUẬT ANH



Alan Donald James Macfarlane là giáo sư của Đại học Cambridge, tiến sĩ chuyên ngành sử học hiện đại - modern history (năm 1967), tiến sĩ chuyên ngành nhân loại học - anthropology (năm 1972). GS. Macfarlane không phải là một nhà luật học, nhưng ông lại có nhiều bài viết, bài phỏng vấn, công trình nghiên cứu liên quan đến lịch sử luật pháp rất có giá trị. Dưới đây là một bài phỏng vấn GS. Macfarlane, tuy ngắn nhưng đã giới thiệu được những nét cơ bản nhất về lịch sử và những đặc trưng điển hình của hệ thống pháp luật Anh (Tiếng Anh).
Nguồn tham khảo (Source): 
http://www.alanmacfarlane.com/FILES/alanlongcv.html
http://www.alanmacfarlane.com/
http://www.alanmacfarlane.com/law/audiovisual.html

Xin trân trọng giới thiệu!

Thứ Bảy, 30 tháng 4, 2011

NHÀ NƯỚC ANH – QUÂN CHỦ MÀ DÂN CHỦ

Nguyễn Minh Tuấn
 
Nhiều người hiện nay vẫn hiểu: “Đã quân chủ thì không dân chủ”.
Hiểu như vậy là chưa đúng. Chưa đúng cả trên phương diện lý thuyết, lẫn thực tế.
Trước hết về mặt lý thuyết, khi nói nhà nước quân chủ hay cộng hòa là nói đến phương diện hình thức chính thể (form of government), còn khi đề cập đến dân chủ hay độc tài là đề cập đến phương diện chế độ chính trị (political governance). Về phương diện thực tế, hình thức chính thể là quân chủ hay cộng hòa chưa nói lên được vấn đề nhà nước đó có dân chủ thực sự hay không.
Nước Anh là một ví dụ điển hình về nhà nước quân chủ mà dân chủ. Muốn lý giải được tại sao nhà nước này lại có hình thức chính thể quân chủ lập hiến (constitutional monarchy), lý giải tại sao có chính thể quân chủ lập hiến nhưng vẫn là một nhà nước dân chủ thì cần phải trở lại tìm hiểu lịch sử ra đời và cả thực tế tổ chức, hoạt động của nhà nước này hiện nay.

Thứ Hai, 7 tháng 3, 2011

HABEAS CORPUS ACT (1679)

Nguyễn Minh Tuấn

Đạo luật Habeas Corpus do Nghị viện Anh thông qua năm 1679 (dưới thời trị vì của nhà vua Charles II) được coi là đạo luật quan trọng trong lịch sử của Anh, cũng như lịch sử pháp luật thế giới qui định các biện pháp nhằm ngăn chặn việc bắt, giam người trái pháp luật.
Đến nay "Habeas corpus" trở thành một thuật ngữ phổ biến và trở thành một  trong những công cụ pháp lý quan trọng nhất bảo vệ quyền tự do của cá nhân chống lại sự xâm phạm của nhà nước ở nhiều quốc gia trên thế giới. Ví dụ: Luật cơ bản của Cộng hòa Liên bang Đức hiện hành tại Điều 2 Khoản 2 Câu 2 LCBĐiều 104 Khoản 2 và 3 LCB; Hiến pháp Hợp chủng quốc Hoa Kỳ tại Điều 1, Section 9, Câu 2: "The privilege of the writ of habeas corpus shall not be suspended, unless when in cases of rebellion or invasion, the public safety may require it."; Hiến pháp Canada năm 1982, tại Điều 10: "Everyone has the right on arrest or detention... (c) to have the validity of the detention determined by way of habeas corpus and to be released if the detention is not lawful."... 
Dưới đây xin giới thiệu với bạn đọc bản dịch Tiếng Anh đạo Luật này từ  trang web Wikisource: http://en.wikisource.org/wiki/Habeas_Corpus_Act, truy cập gần nhất ngày 6 tháng 3 năm 2011.

Chủ Nhật, 6 tháng 3, 2011

MAGNA CHARTA

Sưu tầm và giới thiệu: Nguyễn Minh Tuấn
Magna Charta (Tiếng Latinh: Magna Carta) là bản đại hiến chương của Anh quốc, được ban hành năm 1215. Nội dung của bản hiến chương này là hạn chế quyền lực của nhà vua, đồng thời thừa nhận một số quyền tự do của con người. 
Xung quanh vấn đề ý nghĩa và giá trị của Magna Charta hiện nay cũng có nhiều quan điểm trái ngược nhau. Có tác giả cho rằng đây là văn bản pháp lý vĩ đại, là bản hiến pháp thành văn đầu tiên của nhân loại (Ví dụ: quan điểm của nhóm tác giả Danny Danziger & John Gillingham, trong cuốn sách "Năm 1215 năm của Magna Carta - 1215: The Year of Magna Carta", xuất bản năm 2004, từ trang 278f. hoặc quan điểm của các tác giả Maurice Percy Ashley u. a., Neville Williams, Christopher Hibber viết phần từ Magna Charta đến Cách mạng Pháp (Von der Magna Charta zur Französischen Revolution) in trong Tập 2 của Bộ sách gồm 3 tập: Những mốc phát triển chính của lịch sử (Meilensteine der Geschichte) xuất bản năm 1971). Nhưng cũng có ý kiến cho rằng thực ra Magna Charta chỉ là bản sao từ bản Hiến chương tự do của vua Henry I trước đó năm 1100 và thực tế Magna Charta ở thời trung cổ cũng không có ý nghĩa đáng kể, ngoại trừ vai trò là biểu tượng cho những khát vọng "quyền lực của nhà vua phải bị giới hạn bởi Luật" trong thời kỳ nội chiến ở Anh. (Chẳng hạn như quan điểm của Clanchy, M.T, trong cuốn sách: Clanchy, M.T, Early Medieval England Folio Society, 1997, p139). Có nhiều tác giả còn bổ sung thêm rằng Magna Charta dù quan trọng nhưng không thể được coi là Hiến pháp thành văn đầu tiên của nhân loại được, đó chỉ đơn thuần là một trong hàng loạt các đạo luật  khởi đầu ở Anh đề cập đến việc bảo vệ quyền con người như Habeas Corpus (Luật cấm bắt giam người trái pháp luật, được Nghị viên Anh thông qua năm 1679 dưới thời vua Charles II),  Petition of Right (Luật khiếu nại về quyền, được Nghị viện Anh thông qua năm 1628 qui định một người chỉ có thể bị tống giam khi có phán quyết của Tòa án hoặc lệnh bắt giữ của cơ quan hành chính [writ]), English Bill of Rights (Luật về quyền của Anh quốc được Nghị viên  Anh thông qua năm 1689 qui định về quyền bầu cử  Nghị viện và quyền tự do ngôn luận trong hoạt động của Nghị viên) và Act of Settlement (Luật về thiết lập trật tự, được Nghị viện thông qua năm 1701 bãi bỏ chế độ cha truyền con nối của nhà vua [Removal from the succession] ở Anh) (Xem thêm bài phát biểu của Lord Woolf, Thẩm phán Tòa án Tối cao của Anh và xứ Wales: Judiciary of England and Wales, Speeches, tại địa chỉ website:http://www.judiciary.gov.uk/media/speeches/2005/magna-carta-precedent-recent-constitutional-change đăng ngày 15/7/2005, truy cập gần nhất ngày 6/3/2011).  
Dưới đây là bản dịch Tiếng Anh Magna Charta 1215 (những thuật ngữ cổ được chú giải) của dự án nghiên cứu lịch sử pháp luật thế giới Avalon thuộc Đại học Yale tại địa chỉ: http://avalon.law.yale.edu/medieval/magframe.asp, đăng năm 1996, truy cập gần nhất ngày 6/3/2011. 

LUẬT SA - LICH (SALIC LAW)

Sưu tầm và giới thiệu: Nguyễn Minh Tuấn

Luật Sa - lích (Tiếng Anh: Salic law, Tiếng La tinh: Lex Salica) là Bộ luật được pháp điển hóa dưới thời đế quốc Frank giai đoạn đầu thời kỳ trung cổ, dưới thời cai trị của nhà vua Clovis I (thế kỷ thứ VI). Ngoại trừ một vài thông tin người ta tìm thấy trên một vài ngôi mộ (đặc biệt của Childerich, cha của Clovis tìm thấy ở Tournay năm 1663) thì Đạo luật này gần như là tư liệu duy nhất, điều đó càng khiến cho đạo luật có giá trị lịch sử đặc biệt. Qua những qui định của Bộ luật này người ta thấy được đầy đủ các qui định luật pháp về hệ thống quản lý đất đai, bản chất của cộng đồng làng (the nature of the early village community), quan hệ của người Giéc manh và người La Mã (the relations of the Germans to the Romans), vị trí của nhà vua (the position of the king), các tầng lớp trong xã hội (the classes of the population), đời sống gia đình (family life), tài sản (property), thủ tục tố tụng (judicial procedure), các quan điểm đạo đức (the ethical views). Tất cả đều được thể hiện trong các điều luật của Luật Sa lích. 
Cuốn sách: "Sưu tầm các tư liệu lịch sử thời trung cổ" xuất bản tại Anh năm 1896  của Henderson, Ernest F. (Henderson, Ernest F. Select Historical Documents of the Middle Ages, London, 1896), được giới thiệu lại trên trang web dự án lịch sử pháp luật thế giới tại trang web http://avalon.law.yale.edu/medieval/salic.asp là một nguồn tư liệu quí để nghiên cứu và lý giải nhiều vấn đề về lịch sử pháp luật giai đoạn này. Xin trân trọng giới thiệu!

LUẬT HAMMURABI

Nguyễn Minh Tuấn
Bộ luật Hammurabi là một trong những Bộ luật cổ xưa nhất của nhân loại. Nội dung, giá trị và ý nghĩa của Bộ luật này tôi đã giới thiệu ở bài viết Bộ luật Hammurabi - Một trong những Bộ luật cổ xưa nhất của nhân loại. Tư liệu để nghiên cứu sâu hơn về Bộ luật này, các bạn sinh viên có thể tìm hiểu những tư liệu dưới đây:
1). Giới thiệu về Bộ luật của Charles F. Horne;
2). Bản dịch Bộ luật của L.W.King (Tiếng Anh);
3). Bài phân tích của Claude Hermann Walter Johns;
By the Rev. Claude Hermann Walter Johns, M.A. Litt.D. from the Eleventh Edition of the Encyclopedia Britannica, 1910-1911.
Nguồn:  http://avalon.law.yale.edu/ancient/hammpre.asp 

Thứ Tư, 29 tháng 12, 2010

TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT CƠ BẢN GIỮA NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT PHƯƠNG ĐÔNG, PHƯƠNG TÂY CỔ ĐẠI



Nguyễn Minh Tuấn

Một nội dung quan trọng của Lịch sử nhà nước và pháp luật thế giới là vấn đề Lịch sử nhà nước và pháp luật Phương Đông và Phương Tây thời cổ đại. Đây là một giai đoạn hình thành những nhà nước, những sản phẩm pháp điển hóa đầu tiên, mà hình thức cũng như nội dung của chúng ảnh hưởng lớn đến thời trung đại và cận, hiện đại sau này trong một chiều dài lịch sử phát triển. Vấn đề quan trọng là sau khi nghiên cứu từng nhà nước điển hình ở hai khu vực này, sinh viên phải chỉ ra được những đặc điểm cơ bản, những điểm giống và khác, cũng như cơ sở tạo nên sự tương đồng và khác biệt ấy dưới góc nhìn của nhà luật học. Phần tổng hợp dưới đây chỉ dừng lại ở mức nêu vấn đề để những bạn sinh viên quan tâm khi có điều kiện tiếp tục cùng tìm hiểu, nghiên cứu chứ không làm thay những gì các bạn phải làm. Chớ vội "copy + paste" các nội dung này rồi nhân bản thành các bài tiểu luận hoặc bài kiểm tra na ná giống nhau, điều này là vô ích vì những vấn đề chính cần phải giải thích làm rõ, tác giả về cơ bản đã không/ chưa giải đáp mà nêu thành câu hỏi, để trong dấu ngoặc vuông, chữ màu xanh. Hi vọng những câu hỏi này phần nào sẽ kích thích các bạn sinh viên tư duy,  thậm chí phản biện lại và rút ra những cơ sở lý luận cũng như những bài học kinh nghiệm cho hiện tại.

Chủ Nhật, 19 tháng 12, 2010

PHÂN QUYỀN Ở CỘNG HÒA LIÊN BANG ĐỨC


Nguyễn Minh Tuấn

Sau mỗi buổi nghe giảng những bài giảng của GS trực tiếp hướng dẫn, tôi hay dành thời gian cuối buổi ở lại để được hỏi và trao đổi với GS về những vấn đề mình quan tâm hoặc còn băn khoăn, thắc mắc.

Bài giảng mà GS lần này trình bày là về vấn đề cũ, nhưng lại luôn mới vì tính thời sự của nó "Vấn đề áp dụng học thuyết phân quyền ở nhà nước CHLB Đức". Sau khi nghe giảng, tôi đã đặt ra hai câu hỏi như sau:

Câu hỏi 1. "Tôi thấy giữa nguyên tắc phân quyền (Gewaltenteilung) và đặc trưng của chính thể đại nghị (parlamentarisches Regierungssystem) ở Đức có một sự mâu thuẫn. Cụ thể như GS vừa trình bày, phân quyền là phân công về chức năng giữa lập pháp, hành pháp và tư pháp. Tuy nhiên  trong chính thể đại nghị ở Đức, hoạt động lập pháp không chỉ là việc của Nghị viện, trên thực tế, Chính phủ có tác động rất lớn vào hoạt động lập pháp. Bằng chứng là Chính phủ có quyền trình dự án luật (Gesetzinitiativrecht theo điều 76, khoản 1 Luật cơ bản [viết tắt: LCB]) và quyền ban hành văn bản pháp quy hướng dẫn (Rechtsverordnungen theo Điều 80 LCB). Thủ tướng do Hạ viện bầu ra  (Điều 63 LCB) và trong suốt nhiệm kỳ phải đạt được tín nhiệm của đa số các thành viên Hạ viện (Điều 67, 68 LCB). Quan hệ ràng buộc, tác động thường xuyên qua lại như vậy thì đâu còn là phân quyền. Tôi hiểu như vậy có đúng không và GS nghĩ sao về vấn đề này?"

Câu hỏi 2. "GS có nói không có phân chia quyền lực thì không có tự do, không có hiến pháp và cũng không có nhà nước pháp quyền. Tôi rất quan tâm về vấn đề này, GS có thể chia sẻ rõ hơn được không?" 

Thứ Năm, 25 tháng 11, 2010

LUẬT 12 BẢNG

Giới thiệu và dịch sang Tiếng Việt: Nguyễn Minh Tuấn

Luật 12 bảng (Lex duodecim tabularum) ra đời ở thời kỳ đầu của nền cộng hoà La Mã (hay còn gọi là sơ kỳ của nền cộng hòa). Bộ luật này được khắc trên 12 bảng đồng đặt ở quảng trường La Mã, nên Bộ luật này được gọi tắt là "Luật 12 bảng".
Do phong trào đấu tranh của bình dân và chủ nô công thương chống lại sự vận dụng tuỳ tiện tập quán trong tư pháp vì lợi ích riêng, năm 450 TCN, sau một năm làm việc, Uỷ ban biên soạn pháp luật gồm 5 quí tộc và 5 bình dân đã soạn Bộ luật này. Ủy ban đã thống nhất: ”Một đạo luật được ban hành thì phải được áp dụng chung với tất cả mọi người, chứ không phải một cá nhân cụ thể nào”. Đây là tư tưởng tiến bộ về sự bình đẳng pháp luật (aequum ius) từ các tác giả của Luật 12 bảng. (Xem: Stephan Meder, Rechts-geschichte, 2. Auflage, 2005, S. 13; Mathias Smoeckel, Stefan Stolte, Examinatorium Rechts-geschichte, 1. Auflage, 2008, S. 8f.).
Nghiên cứu luật 12 bảng, chúng ta sẽ phần nào hiểu được đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội của người La Mã cổ đại. Hình thức và nội dung của bản pháp điển hóa này có ảnh hưởng từ pháp luật Hy Lạp cổ đại. Trên phương diện pháp lý, vượt ra khỏi tính giai cấp, Luật 12 bảng có nhiều giá trị, đặc biệt nhất là đã tạo dựng được nền tảng dân luật cổ (alten ius civile). Về nội dung, Luật 12 bảng chứa đựng nhiều qui phạm tiến bộ về tố tụng, về luật tư và luật hình sự. 
Bản gốc của Luật 12 bảng này đã bị thất truyền khi thành La Mã bị phá hủy vào năm 390 SCN. Những gì chúng ta có được ngày nay chỉ là những cứ liệu được ghi chép hoặc trích dẫn lại từ những cuốn sách cổ được viết bởi những tác giả La Mã bằng Tiếng La tinh.
Dưới đây xin trân trọng giới thiệu BẢN DỊCH TIẾNG VIỆT LUẬT 12 BẢNG đến bạn đọc, đặc biệt là các bạn sinh viên Luật.
Bản dịch Luật 12 bảng dưới đây chỉ mang tính chất tham khảo. Do sự bất định và đa nghĩa của ngôn ngữ, cùng với nhiều từ cổ trong Luật, nên mặc dù đã cố gắng, đã trao đổi với cả những đồng nghiệp am hiểu về Tiếng La tinh, nhưng chắc chắn bản dịch dưới đây chưa thể hoàn thiện và không tránh khỏi những sai sót. Bản dịch này và các bản dịch Luật cổ khác sẽ dần được  giới thiệu, chỉnh sửa và hoàn thiện theo thời gian. Tác giả bản dịch rất mong nhận được các ý kiến đóng góp thiện chí. Tương ứng với mỗi qui phạm, tác giả đều trích dẫn kèm theo nguồn gốc bằng cả Tiếng La tinh, Tiếng Anh và Tiếng Đức để bạn đọc tiện đối chiếu khi có điều kiện. Qua đây, chính từ những nội dung của Luật 12 Bảng cũng đặt ra nhiều vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu làm rõ như: Kỹ thuật lập pháp thể hiện trong Luật 12 bảng và Luật La Mã thời cổ đại; nghiên cứu có tính liên ngành tìm hiểu về thực tiễn áp dụng pháp luật thời La Mã cổ đại; Vấn đề cơ sở kế thừa Luật La Mã trong Luật dân sự hiện đại ở các nước Tây Âu qua từng chế định cụ thể [...].
Nguồn:
Bản gốc Tiếng La tinh: Từ Thư viện trực tuyến Bibliotheca Augustana
Các bản dịch:
1.  Tiếng Anh: Warmington, Remains of Old Latin, Vol. III Lucilius, The Twelve Tables, 1967
2. Tiếng Đức: R. Düll, Das Zwölftafelgesetz, Texte, Übersetzungen und Erläuterungen, 7. Auflage, 1995; 

Thứ Bảy, 8 tháng 8, 2009

BÀI HỌC CANH TÂN ĐẤT NƯỚC Ở NHẬT BẢN

Nguyễn Minh Tuấn

Nói đến Nhật Bản hiện nay, người ta biết đến một nền kinh tế lớn thứ hai toàn cầu tính theo GDP, một trong những nước dẫn đầu về khoa học - công nghệ, thu nhập bình quân đầu người gần 40.000 đô la Mỹ/năm.

Có rất nhiều lý do khác nhau để lý giải về sự phát triển thần kỳ của Nhật Bản, nhưng một trong những lý do rất quan trọng đó là nước Nhật đã có những cuộc cải cách toàn diện ở những thời khắc có tính chất quyết định.


Xuyên suốt trong các cuộc cải cách lớn của Nhật Bản là chính sách coi trọng chất xám, chủ động học tập nước ngoài để xây dựng, phát triển đất nước.